Thạc Sĩ Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 17/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính
    Chuyên đề tốt nghiệp
    Đề tài: Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính
    Định dạng file word


    Lời nói đầu
    1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu.
    Vốn là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu của mọi quá trình phát triển. Do vậy, muốn
    sản xuất kinh doanh phải có vốn. Để quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một
    cách bình thường thì vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp hiện nay là phải tổ chức tốt công
    tác huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả, nói một cách khác là doanh nghiệp
    phải luôn luôn bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là một vấn đề có ý nghĩa
    rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả
    sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp giữ vững được sức mua của đồng vốn trong điều
    kiện nền kinh tế có lạm phát và nhiều rủi ro, nâng cao được năng lực hoạt động của đồng
    vốn đồng thời đánh giá được chất lượng quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp, giúp
    cho doanh nghiệp ngày càng vững mạnh trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy các doanh
    nghiệp không thể không bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đó là một nguyên tắc
    bất di bất dịch trong nền kinh tế thị trường.
    Trong những năm cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp ở nước ta, các doanh
    nghiệp quốc doanh được Nhà nước giao chỉ tiêu, doanh nghiệp lấy việc hoàn thành kế
    hoạch cấp trên giao làm mục đích sản xuất kinh doanh. Nhà nước bao cấp về mọi mặt như:
    vốn, giá, thị trường tiêu thụ, lỗ Nhà nước bù . nên các doanh nghiệp quốc doanh không coi
    việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là trách nhiệm của bản thân mình, mà là của Nhà
    nước. Doanh nghiệp chỉ chạy đua với thành tích, với chỉ tiêu.
    Từ khi Nhà nước ta chuyển đổi cơ chế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp
    sang nền kinh tế thị trường lấy doanh lợi làm mục đích sản xuất kinh doanh, nhiều thành
    phần kinh tế cùng song song tồn tại và cạnh tranh với nhau. Những doanh nghiệp làm ăn
    có hiệu quả thì ngày càng đứng vững và phát triển, ngược lại những doanh nghiệp làm ăn
    thua lỗ, vốn kinh doanh bị mất dần sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh thu không
    bù đắp đủ chi phí, không thể lập lại được quá trình tái sản xuất dẫn đến nguy cơ bên bờ
    vực phá sản mà nguyên nhân chủ yếu là do việc tổ chức sử dụng vốn còn nhiều hạn chế.
    Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn được nhiều doanh nghiệp quan tâm chú ý.
    Xuất phát từ vai quan trọng của vốn cố định nói riêng và vốn kinh doanh nói chung,
    kết hợp với thời gian thực tập tại Công ty In tài chính mà mục đích nghiên cứu của đề tài là
    đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty.
    2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
    Đề tài lấy vốn cố định làm đối tượng nghiên cứu, lấy tình hình hoạt động thực tế
    của Công ty In tài chính để làm cơ sở nghiên cứu phân tích. Thời điểm nghiên cứu số liệu
    lấy thực tế qua 5 năm 1997 - 1998 - 1999 - 2000 - 2001.
    3. Kết cấu của chuyên đề.
    nội dung của chuyên đề được trình bày qua 3 chương:
    Chương 1: Vốn cố định và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của
    các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường.
    Chương 2: Thực trạng Hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính
    Chương 3: Những phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở
    Công ty In tài chính


    Chương 1
    Vốn cố định và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của các doanh
    nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường
    1. Vốn cố định trong các doanh nghiệp
    1.1. Khái niệm, đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp
    Những năm gần đây nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao
    cấp sang cơ chế thị trường. Trong điều kiện đó, các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày
    càng được mở rộng và phát triển, xuất hiện các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh
    tế khác nhau cùng song song tồn tại, cạnh tranh lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luật.
    Trong nền kinh tế quốc dân thì mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế. Doanh nghiệp là
    một tổ chức được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất
    kinh doanh. Doanh nghiệp có thể thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
    trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trên thị trường nhằm mục
    đích sinh lợi.
    Để tiến hành sản xuất sản phẩm, mọi doanh nghiệp đều cần phải có hai yếu tố cơ
    bản, đó là sức lao động và tư liệu sản xuất. Căn cứ vào tính chất và tác dụng khi tham gia
    vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia ra làm hai bộ phận là đối tượng lao động và
    tư liệu lao động.
    Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ. Căn cứ vào tính chất và tác
    dụng khi tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia ra làm hai bộ phận là đối
    tượng lao động và tư liệu lao động.
    Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ yếu được tham gia một cách
    trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc
    thiết bị, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc . Đặc điểm chung của các TSCĐ
    trong doanh nghiệp là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm với vai trò là các công
    cụ lao động. Trong quá trình đó hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ
    là không thay đổi, song giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản
    phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất
    kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được tiêu thụ.
    Trong thực tế, tuỳ theo điều kiện kinh tế, yêu cầu và trình độ quản lý ở từng thời kỳ
    nhất định mà người ta có những quy định thống nhất và tiêu chuẩn giới hạn của một
    TSCĐ. Theo chế độ tài chính mới nhất qui định những tư liệu lao động được coi là TSCĐ
    phải có đủ hai điều kiện sau:
    - Có thời hạn sử dụng trên một năm.
    - Có giá trị từ 5 triệu đồng Việt Nam trở lên.
    Những tư liệu lao động nào không đủ một trong hai điều kiện trên sẽ được coi là
    công cụ, dụng cụ thuộc tài sản lưu động và do nguồn vốn lưu động tài trợ. Tuy nhiên do
    yêu cầu của công tác quản lý, trong một số trường hợp có những tư liệu lao động dù giá trị
    và thời hạn sử dụng không đủ tiêu chuẩn quy định nhưng vấn được coi là TSCĐ của doanh
    nghiệp như tổ hợp các đồ dùng trong một phòng làm việc một khách sạn . Mặt khác, trong
    doanh nghiệp có một số khoản chi đầu tư cho sản xuất kinh doanh về tính chất luân chuyển
    cũng tương tự như TSCĐ vì vậy được coi là các TSCĐ không có hình thái vật chất (TSCĐ
    vô hình). Ví dụ như các khoản chi đầu tư mua các bằng phát minh sáng chế, các chi phí
    cho việc nghiên cứu phát triển, nghiên cứu ứng dụng, phát hiện, thăm dò .
    Từ những nội dung trình bày trên, có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ trong doanh
    nghiệp như sau:
    Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị
    lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá trị của tài sản cố định
    không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần dần
    từng phần vào giá thành sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất tiếp theo.
    Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, những TSCĐ đó không chỉ được biểu hiện
    dưới hình thái vật chất mà còn dưới hình thái giá trị. Để đầu tư mua sắm TSCĐ, doanh
    nghiệp cần phải bỏ ra một số vốn nhất định. Vì vậy, số vốn ứng trước xây dựng, mua sắm
    TSCĐ được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp.
    Trong các doanh nghiệp sản xuất, TSCĐ có nhiều loại khác nhau, mỗi loại lại có
    những đặc điểm về tính chất kỹ thuật công dụng khác nhau, được sử dụng trong những lĩnh
    vực hoạt động khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy cần phân loại TSCĐ
    để có những biện pháp quản lý, sử dụng có hiệu quả hơn.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...