Tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu ở công ty xuất nhậ

Thảo luận trong 'Thương Mại - Marketing' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu Dịch vụ - Thương mại Intimex

    Phần mở đầu1. Lý do chọn đề tàiKhi bàn về hoạt động kinh doanh, ông Roney - nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh đã viết: Một công ty kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường muốn chiến thắng trong cạnh tranh, trước hết phải nắm được thông tin, sau đó phải biết xây dùng cho mình các chiến lược và kế hoạch kinh doanh đầy tham vọng.
    Quả thật cạnh tranh là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong chương trình nghị sự không những của các doanh nghiệp mà của cả lãnh đạo các quốc gia.
    Bước vào thế kỷ 21, thương mại toàn cầu và sự bùng nổ của công nghệ đã đẩy sự cạnh tranh trong kinh doanh đến mức độ khốc liệt hơn. Nếu xem như kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quyết định đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi thì quá trình kinh doanh phải gắn liền với thị trường. Khi mà thị trường kinh doanh ngày càng cạnh tranh thì không một công ty nào có thể tự chủ được nếu nh­ họ không làm chủ được cạnh tranh hoặc sử dụng cạnh tranh sao cho có lợi nhất về mình.
    Là mét doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, công ty Intimex còng nh­ các doanh nghiệp khác đang gặp phải những khó khăn rất lớn do mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên ác liệt hơn.
    Để đối phó với thực tế khó khăn này, công ty đã có những giải pháp, chiến lược đối với từng lĩnh vực kinh doanh, trong đó có lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu - một lĩnh vực kinh doanh truyền thống của công ty. Nhưng để tìm ra được một giải pháp hiệu quả mà lại có tính khả thi thì quả không phải là dễ dàng. Và cho đến nay, vấn đề này vẫn chưa tìm được lời giải đáp.
    Sau một thời gian thực tập tại công ty xuất nhập khẩu Dịch vụ - Thương mại Intimex, với mong muốn đóng góp ý kiến của mình trong việc giúp công ty có thể giải quyết những khó khăn về lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu, tôi quyết định chọn đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu Dịch vụ - Thương mại Intimex làm luận văn tốt nghiệp của mình.
    2. Phạm vi nghiên cứu của đề tàiĐề tài tập trung vào phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty trong vòng 3 năm trở lại đây và thực trạng về khả năng cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu của công ty trên thị trường nội địa, từ đó người viết mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu của công ty cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty.
    3. Kết cấu của luận văn.Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
    Chương1: Lý luận chung về nhập khẩu và cạnh tranh
    Chương2: Thực trạng hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu Dịch vụ - Thương mại Intimex.
    Chương3: Mét số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu ở công ty Xuất nhập khẩu Dịch vụ - Thương mại Intimex.
    Nhân đây, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy PGS.TS. NguyÔn Nh­ Bình, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài này.
    Tôi còng xin được gửi lời cảm ơn tới toàn thể Ban lãnh đạo, các phòng ban nghiệp vụ của công ty xuất nhập khẩu Thương mại - Dịch vụ Intimex, đặc biệt là các cô, chú, anh, chị công tác tại Phòng nghiệp vụ 4 đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành đề tài của mình.
    Phần nội dungChương1: Lý luận chung về nhập khẩu và cạnh tranh1.1. Khái quát chung về nhập khẩu1.1.1. Khái niệm, vai trò và nhiệm vụ của nhập khẩua. Khái niệmNhập khẩu là một hoạt động ngoại thương trong đó một quốc gia mua hàng hóa từ các quốc gia khác dưới các hình thức khác nhau. Hàng hóa gồm hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình.
    b. Vai trò- Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước.
    - Nhập khẩu để bổ sung các hàng hóa mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập về những hàng hóa mà nếu sản xuất trong nước sẽ không có lợi thế bằng nhập khẩu.
    - Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân, trong đó cân đối trực tiếp 3 yếu tố của sản xuất là: công cụ lao động, đối tượng lao động và lao động.
    Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, vai trò quan trọng của nhập khẩu được thể hiện trên các mặt sau đây:
    Thứ nhất, nhập khẩu có tác động trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh thương mại vì qua hoạt động nhập khẩu cung cấp cho nền kinh tế 60% - 100% nguyên vật liệu chính phục vụ cho sản xuất. Trong điều kiện công nghiệp sản xuất nguyên liệu trong nước chưa phát triển, việc nhập khẩu những nguyên liệu cao cấp như sợi cho ngành dệt, vải cho ngành may, phân bón cho nông nghiệp, các linh kiện cho ngành lắp ráp xe máy, điện tử, xe hơi, Hoạt động nhập khẩu đã và đang góp phần quan trọng trong thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hướng về xuất khẩu.
    Thứ hai, nhập khẩu tác động mạnh vào sự đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất, nhờ đó trình độ sản xuất được nâng cao, năng suất lao động tăng đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới.
    Thứ ba, nhập khẩu có vai trò nhất định trong việc cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân bởi thông qua nhập khẩu sản xuất của nước ta mới có đủ nguyên nhiên vật liệu, thiết bị máy móc hoạt động nên công nhân mới có công ăn việc làm và có thu nhập. Mặt khác nhập khẩu hàng tiêu dùng, nhập khẩu sách báo khoa học kỹ thuật và văn hóa phẩm chất lượng cao đời sống mới được cải thiện, trình độ dân trí được nâng cao.
    c. Nhiệm vụ của nhập khẩu- Đảm bảo kịp thời, đầy đủ và đồng bộ nhu cầu về tư liệu sản xuất phục vụ cho sản xuất;
    - Góp phần thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật;
    - Bổ sung kịp thời những nhu cầu sản xuất và đời sống trong nước còn mất cân đối góp phần cải thiện đời sống nhân dân.
    1.1.2. Những nguyên tắc của chính sách nhập khẩua. Sử dụng vốn nhập khẩu tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh tế caoTrong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, việc mua bán với các nước đều tính theo thời giá quốc tế và thanh toán với nhau bằng ngoại tệ tự do, không còn các khoản vay để nhập siêu, không còn ràng buộc nghị định thư nh­ trước đây. Do vậy, tất cả các hợp đồng nhập khẩu đều phải dựa trên lợi Ých và hiệu quả để quyết định. Đồng thời, nhu cầu nhập khẩu để công nghiệp hóa và phát triển kinh tế rất lớn, vốn để nhập lại eo hẹp. Nhưng không phải vốn ngoại tệ dành cho nhập khẩu Ýt mới đặt vấn đề phải tiết kiệm. Tiết kiệm và hiệu quả là vấn đề rất cơ bản của một quốc gia, còng nh­ của mỗi doanh nghiệp. Thực hiện nguyên tắc này có nghĩa là đòi hỏi các cơ quan quản lý, còng nh­ các doanh nghiệp phải:
    - Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, khoa học kỹ thuật của đất nước.
    - Sử dụng vốn tiết kiệm, dành ngoại tệ nhập vật tư cho sản xuất và đời sống, khuyến khích sản xuất trong nước thay thế nhập khẩu.
    - Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hóa thích hợp với giá cả có lợi, nhanh chóng phát huy tác dụng đẩy mạnh sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
    b. Nhập khẩu thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đạiViệc nhập khẩu thiết bị máy móc và nhận chuyển giao công nghệ, kể cả thiết bị theo con đường đầu tư phải nắm vững phương châm đón đầu, đi thẳng vào tiếp thu công nghệ hiện đại. Nhập phải hết sức chọn lọc. Hết sức tránh nhập những loại công nghệ lạc hậu mà các nước phát triển đang tìm cách thải ra. Nhất thiết không để mục tiêu rẻ mà nhập các thiết bị cũ về, chưa dùng được bao lâu, chưa đủ sinh lợi nhuận đã phải thay thế.
    c. Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng nhanh xuất khẩuThế giới lâu nay và gần đây vẫn đầy ắp những kho tồn trữ máy móc thiết bị và nguyên nhiên liệu. Trong hoàn cảnh đó, việc nhập khẩu dễ hơn là tự sản xuất trong nước.
    Trong hoàn cảnh hiện nay, chính sách nhập khẩu của Việt Nam tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
    - Hoạch định chính sách nhập khẩu phải phù hợp với những nguyên tắc chung về chính sách bảo hộ mậu dịch của các tổ chức quốc tế.
    Thật vậy, với nền công nghiệp Việt Nam còn non trẻ rất cần thiết phải có sự bảo hộ của Nhà nước thông qua chính sách hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia vào AFTA, APEC, đang trong quá trình đàm phán với WTO (tổ chức thương mại thế giới) và Mỹ thì chính sách nhập khẩu phải đáp ứng yêu cầu mở cửa kinh tế Việt Nam của các tổ chức này để mau chóng nền kinh tế Việt Nam hội nhập với tiến trình khu vực hóa và quốc tế hóa toàn cầu gia tăng.
    - Sử dụng ngoại tệ với tinh thần tiết kiệm và đem lại hiệu quả kinh tế cao.
    Hiện nay để đảm bảo nền kinh tế phát triển với tốc độ cao thì nhu cầu nhập khẩu gia tăng, trong khi nguồn ngoại tệ của chúng ta có hạn, hầu như chỉ dựa vào nguồn ngoại tệ do xuất khẩu mang lại cho nên ta phải sử dụng ngoại tệ với tinh thần tiết kiệm ưu tiên trước hết cho nhập khẩu máy móc, trang thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu trong nước chưa sản xuất được để đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hóa đất nước.
    - Nguyên tắc phải dành ưu tiên cho việc nhập khẩu tư liệu sản xuất đồng thời có chú ý thích đáng đến nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống nhân dân.
    Nội dung của nguyên tắc này là góp phần xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, đặc biệt cơ cấu giữa các ngành cơ bản như công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, nông nghiệp, du lịch và dịch vụ
    Góp phần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhập khẩu tư liệu sản xuất và nhập khẩu hàng tiêu dùng.
    Thật vậy, sản xuất quyết định tiêu dùng cho nên phải ưu tiên nhập khẩu vật tư trang thiết bị để nuôi sống và phát triển sản xuất. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta phải có sự chú ý thích đáng tới việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, có như vậy mới góp phần duy trì và phát triển sức lao động. Cho nên bên cạnh dành ngoại tệ để ưu tiên nhập xăng dầu, phân bón, sắt thép, máy móc, trang thiết bị cần phải quan tâm nhập khẩu những tư liệu tiêu dùng như thuốc và dụng cụ y tế, các loại lương thực mà ta còn thiếu và những phương tiện sinh hoạt chưa tự sản xuất được.
    - Nguyên tắc kết hợp giữa nhập khẩu và xuất khẩu
    Xuất khẩu và nhập khẩu là hai bộ phận của một quá trình buôn bán quốc tế, nó gắn bó với nhau, vừa là điều kiện tiền đề của nhau vừa là kết quả của nhau. Vì vậy cho nên trong quá trình hoạt động chúng ta cần phải gắn bó xuất khẩu - nhập khẩu với nhau trên các mặt: kết hợp về kim ngạch, kết hợp giữa lợi Ých trước mắt và lợi Ých lâu dài, kết hợp giữa lợi Ých trực tiếp và lợi Ých gián tiếp.
    - Nguyên tắc xây dựng thị trường nhập khẩu ổn định vững chắc và lâu dài.
    Đông Âu và các nước SNG là thị trường chủ lực của chúng ta trước đây gặp khó khăn nghiêm trọng về chính trị và kinh tế, thì việc xây dựng thị trường ổn định cho phép ta nhập khẩu những tư liệu sản xuất thiết yếu phục vụ cho phát triển ổn định về kinh tế có ý nghĩa to lớn. Trước hết phải củng cố mối quan hệ kinh tế lớn với các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước ASEAN mà Việt Nam là hội viên, Nhật Bản và các nước thuộc khu vực nói tiếng Hoa. Đồng thời quan tâm thích đáng phát triển quan hệ với các nước công nghiệp phát triển có trình độ khoa học kỹ thuật cao như EU, Mỹ. Xây dựng chiến lược xuất khẩu có hiệu quả, đẩy mạnh sản xuất và nâng cao chất lượng hàng hóa sản xuất để thay thế dần hàng hóa nhập khẩu, có chiến lược đầu tư và thu hút vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp như chế biến dầu thô, sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, sản xuất thiết bị máy móc phục vụ nông nghiệp
    1.1.3. Cơ cấu ngành hàng nhập khẩuCơ cấu nhập khẩu là tỉ lệ tương quan giữa các nhóm ngành hàng trong toàn bộ kim ngạch nhập khẩu.
    Toàn bộ hàng nhập khẩu có thể chia ra thành 5 nhóm ngành hàng:
    - Thiết bị toàn bộ
    - Thiết bị lẻ
    - Dụng cụ phụ tùng
    - Nguyên vật liệu
    - Hàng tiêu dùng
    a. Thiết bị toàn bộGồm máy móc, nguyên vật liệu, công nghệ được nhập khẩu bảo đảm sự hoạt động hoàn chỉnh của một công trình. Trong nhiều trường hợp nhập khẩu thiết bị toàn bộ người ta nhập khẩu luôn cả bí quyết công nghệ và có chuyên gia lắp đặt và hướng dẫn sử dụng.
    Khi nhập khẩu thiết bị toàn bộ phải cố gắng đạt được các yêu cầu theo thứ tự ưu tiên như sau:
    - Kỹ thuật tiên tiến, chất lượng tốt
    - Cho phép sản xuất sản phẩm với khả năng cạnh tranh cao
    - Giá cả phải chăng, có điều kiện thanh toán thuận lợi
    - Phù hợp với điều kiện sản xuất trong nước và tay nghề của công nhân bản xứ.
    Một nước như Việt Nam, từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn, muốn đi với tốc độ vững chắc thì nhóm thiết bị toàn bộ trong cơ cấu nhập khẩu phải chiếm tỷ lệ thích đáng và ngày càng tăng.
    b. Thiết bị máy móc lẻMục đích nhập khẩu về để lắp đặt mới hoặc thay thế máy móc hao mòn, hoặc hữu hình. Khi nhập khẩu nhóm ngành hàng này phải chú ý:
    - Phù hợp với công suất hoạt động của nhà máy
    - Đảm bảo tính đồng bộ của máy móc sử dụng
    - Máy móc thích hợp với điều kiện sản xuất của Việt Nam
    - Phụ tùng đơn giản dễ kiếm
    - Giá cả phải chăng với điều kiện thanh toán thuận lợi
    - Hạn chế nhập khẩu những máy móc ta đã sản xuất được trong nước, chất lượng không thua kém hàng ngoại nhập.
    c. Dụng cụ phụ tùngChủ yếu là phụ tùng thay thế để thực hiện bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa những máy móc thiết bị nhập khẩu mà trong nước chưa có điều kiện sản xuất.
    d. Nguyên vật liệuHàng năm tỉ trọng nhập khẩu nhóm ngành hàng này rất cao vì để thoả mãn 49% - 90% nhu cầu nguyên liệu trong nước: trên 90% xăng dầu, 80% phân bón thuốc trừ sâu,
    e. Nhóm hàng tiêu dùngNước ta còn nghèo, mức sống của nhân dân còn thấp, nhiều nhu cầu của đời sống sản xuất trong nước còn chưa đáp ứng được, cho nên nhập khẩu tư liệu tiêu dùng mang tính tất yếu khách quan phù hợp với chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước.
    Tuy nhiên, khi xây dựng chính sách nhập khẩu hàng tiêu dùng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng ba vấn đề cơ bản sau đây:
    - Cơ cấu hàng tiêu dùng trong toàn bộ kim ngạch nhập khẩu phải ở mức độ vừa phải
    - Nhập khẩu có tác dụng khuyến khích và bảo vệ sản xuất hàng tiêu dùng trong nước. Vì khuyến khích sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng là chiến lược kinh tế cơ bản của Nhà nước Việt Nam.
    - Cân nhắc mặt hàng tiêu dùng nhập khẩu. Chỉ nên nhập khẩu hàng hóa cần thiết, hàng hóa trong nước không sản xuât được. Không nhập khẩu những hàng xa xỉ phẩm xa lạ với mức sống của nhân dân ta.
    1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩuTrong giai đoạn hiện nay, khi mà hoạt động ngoại thương chịu tác động rất lớn do sự bùng nổ thông tin và khoa học kỹ thuật, đồng thời hoạt động trong cơ chế thị trường, tự do cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải thường xuyên nắm bắt được các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu, xu hướng vận động và tác động của nó đến toàn bộ quá trình của hoạt động nhập khẩu. Các nhân tố này đã trở nên thực sự quan trọng đối với hoạt động nhập khẩu.
    a. Điều kiện sản xuất trong nước· Điều kiện tự nhiênĐiều kiện tự nhiên là yếu tố khách quan không nằm trong sự kiểm soát của con người. điều kiện tự nhiên có thể kể đến là khí hậu, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý. Yếu tố này có tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và hoạt động nhập khẩu phục vụ nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu sản xuất.
    Việt Nam là một nước có tỷ lệ dân số sống bằng nghề nông nghiệp rất lớn. Điều này cho thấy điều kiện tự nhiên có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Trong trường hợp rủi ro xảy ra do thiên tai thì việc nhập khẩu hàng hóa phục vụ nhu cầu của nhân dân là vô cùng cần thiết và cấp bách.
    · Năng lực về vốn, trình độ và nguồn nhân lựcChóng ta biết rằng lĩnh vực ngoại thương, đó là quan hệ mua bán hàng hóa với các quốc gia khác trên thế giới bao gồm hàng hóa vô hình và hàng hóa hữu hình. Vì lẽ đó trong lĩnh vực này sẽ phát sinh quan hệ tiền hàng, bên cạnh đó là sự trợ giúp về mặt hạ tầng như giao thông vận tải, thông tin liên lạc và nguồn nhân lực.
    Do đó, có thể nói rằng đây là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chiến lược và thời cơ nhập khẩu. Vốn, công nghệ và nguồn nhân lực là cơ sở hạ tầng đảm bảo cho sự phát triển sản xuất và phát triển kinh tế đất nước.
    Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương đa dạng hóa các thành phần king tế, mở cửa ra bên ngoài, tự do buôn bán, xuất nhập khẩu trong khuôn khổ Nhà nước cho phép. Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nhập khẩu sẽ phải cạnh tranh khốc liệt tại thị trường trong nước về tiêu thụ hàng hóa và ở cả thị trường nước ngoài về nhập hàng hóa có chất lượng cao, giá thành hạ. Chính điều này đã buộc các doanh nghiệp phải nhạy bén, linh hoạt, chú trọng đầu tư vốn, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực lành nghề phục vụ cho kinh doanh nhập khẩu.
    Vốn quyết định đến quá trình nhập khẩu. Có vốn, hoạt động nhập khẩu sẽ được mở rộng cả về quy mô lẫn chất lượng. Bằng chứng là danh mục mặt hàng nhập khẩu sẽ phong phú hơn, chất lượng sẽ cao hơn, đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng hơn. Đồng thời thị trường nhập khẩu sẽ được mở rộng sang các nước và khu vực mà trước kia chưa có quan hệ.
    Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội . Yếu tố công nghệ có tác động đến chất lượng của hàng hóa, ảnh hưởng lớn đến giá thành và do đó đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Cũng chính nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ, cụ thể là sự phát triển của bưu chính viễn thông mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có thể trao đổi trực tiếp với bạn hàng, với người tiêu dùng một cách nhanh chóng hơn và chi phí thấp hơn.
    Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng để hoạt động nhập khẩu hàng hóa được thực hiện. Cụ thể, đó là những con người đang dẫn dắt thực hiện mọi hoạt động nhập khẩu. Con người chính là chủ thể của hoạt động nhập khẩu, điều khiển mọi hoạt động của nó. Vì vậy, có được nguồn nhân lực dồi dào, giàu kinh nghiệm cộng với trình độ cao chính là mục tiêu của mọi doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng.
    b. Chính sách ngoại thươngĐó là một hệ thống các nguyên tắc, biện pháp kinh tế, hành chính và pháp luật dùng để thực hiện các mục tiêu đã xác định trong lĩnh vực ngoại thương của một đất nước trong một thời gian nhất định.
    Chính sách ngoại thương là một bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế của một nước, nó góp phần thúc đẩy thực hiện các mục tiêu kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ.
    Các công cụ chủ yếu của chính sách ngoại thương bao gồm công cụ thuế quan và phi thuế quan. Công cụ thuế quan bao gồm thuế quan nhập khẩu và thuế quan xuất khẩu. Các công cụ phi thuế quan bao gồm: các biện pháp hành chính (như quota; hạn chế xuất khẩu tự nguyện, ), các đòn bẩy kinh tế (như các biện pháp hỗ trợ về tín dụng, trợ giá, ), các biện pháp kỹ thuật (như tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh phòng dịch, về ký mã hiệu, nguồn gốc xuất xứ, bảo vệ môi sinh, ).
    · Thuế quanThuế quan là một khoản tiền tệ mà người chủ hàng hóa xuất nhập khẩu hoặc quá cảnh phải nộp cho hải quan là cơ quan đại diện cho nước chủ nhà.
    Từ những giác độ khác nhau, người ta phân loại thuế quan theo các tiêu thức khác nhau:
    Theo đối tượng đánh thuế, thuế quan được chia thành thuế quan xuất khẩu (là thuế quan đánh vào hàng hóa xuất khẩu), thuế quan nhập khẩu (là thuế quan đánh vào hàng hóa nhập khẩu) và thuế quan quá cảnh.
    Thuế nhập khẩu được áp dụng rất phổ biến trên thế giới. Thuế nhập khẩu có những tác động tích cực và tiêu cực sau:
    - Mặt tích cực+ Tạo nguồn thu quan trọng cho Nhà nước
    + Điều chỉnh hàng hóa từ thị trường nước ngoài vào trong nước
    + Bảo vệ thị trường nội địa
    - Mặt tiêu cực+ Làm thiệt hại lợi Ých của nhà sản xuất và người tiêu dùng
    + Khuyến khích một số doanh nghiệp sản xuất kém hiệu quả
    + Về lâu dài, nó gây ra các phản ứng xấu: buôn lậu, tạo một thị trường sản xuất nội địa yếu kém,
    Theo phương pháp tính thuế, thuế quan bao gồm:
    - Thuế quan tính theo một đơn vị vật chất của hàng hóa nhập khẩu, là loại thuế đơn giản nhất đánh vào một đơn vị hàng hóa được nhập khẩu.
    P[SUB]1[/SUB] = P[SUB]0[/SUB] + T­[SUB]s[/SUB]
    Trong đó: P[SUB]0[/SUB] và P[SUB]1[/SUB] là giá cả hàng hóa trước và sau khi đánh thuế; T[SUB]s[/SUB] là mức thuế đánh vào một đơn vị hàng hóa.
    - Thuế đánh theo giá trị hàng hóa( thuế đánh theo giá trị, thuế đánh theo tỷ lệ %).
    P[SUB]1[/SUB] = P[SUB]0[/SUB](1+t)
    Trong đó t là mức % thuế theo giá trị hàng.
    - Thuế hỗn hợp là sự kết hợp của hai dạng trên.
    Theo mục đích đánh thuế, thuế quan được chia thành thuế tài chính và thuế bảo hộ.
    - Thuế quan tài chính là loại thuế mà vai trò của nó nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
    - Thuế quan bảo hộ là loại thuế với mục đích nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước.
    · Theo mức thuế, thuế quan chia làm 3 loại:- Mức thuế tối đa là cách thức đánh thuế vào hàng hóa như sau: một mặt hàng nhập khẩu có nhiều mức thuế khác nhau phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu (từ nước không được ưu đãi, được hưởng quy chế tối huệ quốc, được hưởng GSP, ), nhưng biểu thuế quy định thêm hàng hóa bị đánh thuế không quá giới hạn cho phép nào đó.
    - Mức thuế tối thiểu là cách quy định cách tính thuế nhập khẩu phải nộp. Còn quy định thêm: mức thuế phải nộp không thấp hơn mức thuế tối thiểu nhằm chống lại hiện tượng gian lận thương mại như: kê khai giá trị hàng nhập khẩu không đúng, nêu sai xuất xứ hàng nhập khẩu. Cách quy định tồn tại rất phổ biến tại nước cộng hoà Liên bang Nga.
    - Mức thuế ưu đãi là mức thuế đánh giảm khi hàng hóa xuất khẩu sang hoặc nhập khẩu từ những nước có quan hệ tối huệ quốc với nước chủ nhà.

    · Hạn ngạchHạn ngạch (quota) là việc hạn chế số lượng đối với một loại hàng hóa xuất và nhập khẩu nào đó thông qua hình thức cấp giấy phép. Tính chất riêng biệt của giấy phép cũng như những thủ tục cấp giấy phép của Chính phủ cũng đóng vai trò khuyến khích hoặc hạn chế xuất nhập khẩu.
    Hạn ngạch xuất khẩu được áp dụng Ýt hơn hạn ngạch nhập khẩu và thường chỉ áp dụng đối với các mặt hàng quý, thiết yếu với đời sống như gạo, gỗ quý
    Hạn ngạch có tác dụng giống như thuế, nghĩa là nó hạn chế tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên, nếu dùng hạn ngạch thì Chính phủ sẽ không có nguồn thu như thuế. Hiện nay tình hình này có thay đổi: ở một số quốc gia phát triển đã tổ chức hình thức bán đấu giá hạn ngạch.
    Hạn ngạch dễ dẫn đến độc quyền kinh doanh và các tiêu cực trong việc tìm cơ hội để có được hạn ngạch.
    Tại Việt Nam, hạn ngạch thường được áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu. Điều này có thể thấy rõ qua hạn ngạch nhập khẩu xe máy, hạn ngạch nhập khẩu phân bón, Hạn ngạch xuất khẩu cũng đang tồn tại ở Việt Nam. Theo Nghị định 57, hướng dẫn thi hành chi tiết luật Thương mại ban hành ngày 31/7/1998 có hiệu lực từ 1/9/1998, thì ở Việt Nam có hai nhóm mặt hàng xuất khẩu được quản lý bằng hạn ngạch, đó là gạo và hàng hóa do các tổ chức kinh tế nước ngoài Ên định đối với Việt Nam như xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU, Canada, Nauy,
    · Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuậtTiêu chuẩn kỹ thuật là một yêu cầu khách quan đối với các loại hàng hóa và dịch vụ nhằm bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên trong thực tế nó thường được các nước phát triển sử dụng vì đó là lợi thế của họ và được biến thành một công cụ cạnh tranh hữu hiệu. Nội dung của nó là những quy định về tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh phòng dịch, tiêu chuẩn đo lường, quy định về an toàn lao động, bao bì đóng gói cũng như các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sinh thái, quy định một tỷ lệ nguyên liệu nhất định trong nước để sản xuất loại hàng hóa nào đó.
    Ví dụ: Việt Nam đã quy định việc kiểm nghiệm động thực vật nhập khẩu khi đưa vào thị trường nội địa. Nước Mỹ cũng cấm nhập khẩu những hàng hóa do tù nhân sản xuất ra hay những hàng hóa bao bì đóng gói sai quy cách của nước Mỹ. Những quy định là một đòi hỏi khách quan của xã hội loài người ngày càng phát triển. Song, ngày nay nó lại đang được các nước phát triển áp dụng để ngăn chặn hàng hóa của nước ngoài vào nước mình một cách khéo léo. Chính vì vậy nó còn có một tên khác là công cụ siêu bảo hộ.
    · Hạn chế xuất khẩu tự nguyệnLà hình thức bảo hộ thị trường nội địa bằng cách nước nhập khẩu đòi hỏi các nước xuất khẩu phải giảm hàng xuất khẩu sang nước mình hoặc phải nâng giá hàng xuất khẩu lên, nếu không nước nhập khẩu sẽ áp dụng biện pháp kiên quyết để trả đũa. Như vậy, đây là một quota nhập khẩu tự nguyện.
    Thực chất đây là hình thức thông qua phương thức thương lượng để đạt được kết quả về mậu dịch. So với hình thức hạn chế khác, tự hạn chế xuất khẩu ra đời từ cuối những năm 50 ở Mỹ nhằm chống lại các mặt hàng dệt xuất khẩu của Nhật Bản sang Mỹ. Nhưng ngày nay nó được xem là những công cụ hữu hiệu để giảm bớt sự bành trướng thâm nhập của hàng hóa nước ngoài trên thị trường nội địa. Ví dụ, để giảm bớt sự bội thu trong cán cân thương mại với Mỹ, Nhật Bản và EU tự nguyện hạn chế khối lượng xuất khẩu xe hơi, thép và các mặt hàng điện tử cao cấp sang thị trường Mỹ.
    · Trợ cấp xuất khẩuNội dung của trợ cấp xuất khẩu bao gồm nhiều hình thức khác nhau:
    - Trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi xuất thấp đối với các nhà xuất khẩu trong nước.
    - Cho vay ưu đãi đối với các bạn hàng nước ngoài để mua sản phẩm của mình.
    Ngoài ra, Nhà nước còn có thể áp dụng các biện pháp khác như bán phá giá hàng hóa; bán phá giá hối đoái,
    Đối với các nhà quản lý và doanh nghiệp sản xuất, thương mại, việc nghiên cứu chính sách ngoại thương của các nước có ý nghĩa quan trọng:
    - Nắm vững chính sách ngoại thương của các nước mới tìm được cách xâm nhập thị trường để chọn thị trường mua rẻ bán đắt nâng cao hiệu quả của hoạt động ngoại thương. Bởi mỗi nước đều lập ra một chính sách bảo hộ mậu dịch riêng, có chính sách khuyến khích phát triển xuất khẩu và nhập khẩu riêng, nghiên cứu kỹ những chính sách và biên pháp này giúp các nhà doanh nghiệp xây dựng thị trường mục tiêu cho từng ngành hàng xuất khẩu và nhập khẩu
    - Nắm được chính sách ngoại thương của một nước sẽ giúp lựa chọn hình thức bành trướng kinh tế ra bên ngoài một cách thích hợp.
    1.2. Khái quát chung về cạnh tranhCạnh tranh là một cuộc đấu tranh giữa các doanh nghiệp nhằm giành được những điều kiện có lợi nhất về sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
    Mỗi doanh nghiệp thành công trong việc làm rõ và làm chủ được cạnh tranh luôn luôn có bên mình một chiến lược ưu việt. Chiến lược Êy có thể được xây dựng trên cơ sở phân tích khách quan, hoặc từ ý định chủ quan, hoặc thử nghiệm, hoặc chỉ đơn giản là do may mắn. Nhưng dù có được xây dựng theo cách nào đi nữa thì chiến lược vẫn là nền tảng của kinh doanh thành công.



    1.2.1. Các loại thị trường cạnh tranha. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo· Đặc trưng- Có nhiều người mua và người bán độc lập với nhau. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo đòi hỏi có nhiều người mua và nhiều người bán, mỗi người trong số họ hành động độc lập với tất cả những người khác.
    Số người bán và người mua được gọi là nhiều khi những giao dịch bình thường của một người mua hoặc một người bán không ảnh hưởng gì đến giá mà ở đó các giao dịch được thực hiện.
    - Tất cả các đơn vị hàng hóa trao đổi được coi là giống nhau. Dễ thấy trong thị trường thực tế có đặc trưng này. Chẳng hạn thị trường than đá thuộc cùng một chất lượng, hoặc thị trường xăng mỗi đơn vị là một bản sao y hệt của một đơn vị bất kỳ khác. Bởi vậy người mua không bao giờ phải quan tâm đến việc họ mua các đơn vị đó của ai.
    - Tất cả người mua và người bán đều hiểu biết đầy đủ về các thông tin có liên quan đến trao đổi. Thị trường cạnh tranh đòi hỏi tất cả người mua và người bán có quan hệ với tất cả những người trao đổi tiềm năng, biết tất cả các đặc trưng của các mặt hàng trao đổi; biết tất cả giá người bán đòi và giá người mua trả. Mọi người có liên hệ mật thiết với nhau và sự thông tin giữa họ là liên tục
    - Không có gì cản trở việc gia nhập và rút khỏi thị trường. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo ở mỗi thời điểm, mỗi người đều phải được tự do trở thành người mua hoặc người bán, được tự do gia nhập thị trường và được trao đổi ở cùng một mức giá như những người trao đổi hiện hành. Tương tự, nó đòi hỏi không có trở ngại nào ngăn không cho một người nào đó thôi không là người bán hoặc là người mua trong thị trường và vì thế rút khỏi thị trường.

    · Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo- Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có thể bán các sản phẩm của mình ở mức giá thị trường đang thịnh hành, nếu doanh nghiệp đặt giá cao hơn thì doanh nghiệp sẽ không bán được hàng vì người tiêu dùng sẽ mua của người khác. Theo nghĩa đó doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo không có sức mạnh thị trường, tức là không có khả năng kiểm soát giá trị trường đối với sản phẩm mình bán. Sản lượng của doanh nghiệp là nhỏ so với cung của thị trường, vì thế doanh nghiệp không có ảnh hưởng đáng kể đến tổng sản lượng hoặc giá trên thị trường.
    - Các doanh nghiệp cạnh tranh riêng lẻ có thể bán hết sản lượng của mình ở giá thị trường đang thịnh hành. Đây là đặc trưng của việc không có sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp cạnh tranh không có ảnh hưởng độc lập đến giá thị trường. Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có sản lượng quá nhỏ so với dung lượng thị trường, do đó các quyết định sản lượng của các doanh nghiệp không có ảnh hưởng đáng kể đến giá.

    [TABLE=align: left]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]












    a) b)
    Hình 1:

    a): Đường cầu doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo
    b) Đường cầu thị trường.
    b. Độc quyền· Độc quyền bán- Nguyên nhân dẫn đến độc quyền bán.
    Mét doanh nghiệp có thể chọn được vị trí độc quyền bán nhờ một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
    + Đạt được tính kinh tế của quy mô.
    Yếu tè quan trọng quyết định cấu trúc thị trường là sản lượng ở mức quy mô tối thiểu có hiệu quả so với cầu của thị trường. Quy mô tối thiểu có hiệu quả là sản lượng mà tại đó đường chi phí bình quân dài hạn của một doanh nghiệp ngừng đi xuống. Như vậy, nếu một doanh nghiệp đạt được tính kinh tế của quy mô thì việc mở rộng sản lượng của nó sẽ loại bỏ được các đối thủ và cuối cùng sẽ là người bán duy nhất trên thị trường, nếu mức sản lượng có chi phí bình quân dài hạn tối thiểu của nó là đủ lớn để đáp ứng cầu thị trường.
    + Bằng phát minh sáng chế (bản quyền).
    Luật về bằng phát minh sáng chế (bản quyền) cho phép các nhà sản xuất có được vị trí độc quyền về bán một sản phẩm hoặc một quy trình công nghệ mới trong một khoảng thời gian nhất định.
    - Đường cầu và doanh thu cận biên trong độc quyền bán.
     
Đang tải...