Thạc Sĩ Một số đề xuất nâng cao hiệu quả hoạt động các tổ chức xúc tiến xuất khẩu chính phủ việt nam

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CHƯƠNG 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN


    1.1. Những khái niệm liên quan
    1.1.1. Khái niệm về xúc tiến XK (XTXK)

    Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về XTXK. Có thể tạm chia
    ra làm hai loại khái niệm về XTXK: khái niệm truyền thống (khái niệm hẹp) và khái niệm
    hiện đại (khái niệm rộng).
    1.1.1.1. Khái niệm truyền thống về XTXK
    Cách tiếp cận này xem XTXK là một "P" của Marketing hỗn hợp, bao gồm sản
    phẩm (Product), giá cả (Price), phân phối (Place) và xúc tiến (Promotion). Đồng thời, chủ
    thể của hoạt động XTXK là DN trong mối tương quan với khách hàng. Một số khái niệm
    tiêu biểu thuộc loại này:
    1) Philip Kotler [1] "Xúc tiến là hoạt động thông tin tới khách hàng tiềm năng. Đó
    là các hoạt động trao truyền, chuyển tải tới khách hàng những thông tin cần
    thiết về DN, sản phẩm của DN, phương thức phục vụ và những lợi ích khác mà
    khách hàng có thể thu được từ việc mua sản phẩm hay dịch vụ của DN cũng như
    những thông tin phản hồi lại từ phía khách hàng để từ đó, DN tìm ra cách tốt nhất
    nhằm thoả mãn yêu cầu của khách hàng"
    2) Theo Viện Nghiên cứu Thương mại [2], các nhà lý luận của các nước tư bản
    quan niệm xúc tiến là hình thái quan hệ giữa người bán và người mua, là một
    lĩnh vực hoạt động định hướng vào việc chào hàng một cách năng động và hiệu
    quả nhất. Các nhà kinh tế học ở các nước Đông Âu thì cho rằng xúc tiến là một công
    cụ, một chính sách thương mại nhằm làm năng động và gây ảnh hưởng định hướng
    giữa người bán và người mua, là một hình thức hoạt động tuyên truyền nhằm mục tiêu
    đạt được sự chú ý và chỉ ra những lợi ích của khách hàng tiềm năng về hàng hoá và
    dịch vụ.
    3) UNESCAP [3] cho rằng "Giống như xúc tiến thương mại, đó là những hoạt
    động được thiết kế nhằm gia tăng kim ngạch XK của một DN hay một quốc gia.
    Bao gồm việc tham gia hội chợ, khảo sát thị trường, các chiến dịch quảng
    cáo "

    1.1.1.2. Khái niệm hiện đại về XTXK
    Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, bản chất của thương mại quốc tế cũng có
    những biến đổi sâu sắc. Đi liền với những cơ hội mới là những thách thức lớn lao đòi hỏi
    phải có những biện pháp phối hợp đồng bộ giữa chính phủ và DN để thúc đẩy XK phát
    triển. Điển hình là một số khái niệm sau :
    1) Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) [4] quan niệm XTXK bao trùm cả tầm
    vi
    mô (DN) và vĩ mô (chính phủ và các tổ chức hỗ trợ thương mại) và cả trong
    ngắn hạn lẫn dài hạn.
    Trước mắt Dài hạn
    DN Quá trình XK Phát triển kinh doanh XK
    (Marketing XK) (Marketing quốc tế)
    Chính phủ và các tổ chức XTXK Phát triển XK
    hỗ trợ thương mại (TSIs)

    Quan niệm này của ITC là rất rộng và chứa đựng tất cả các biện pháp nhằm phát triển XK
    trên bình diện quốc gia. Có hai loại biện pháp là gián tiếp và trực tiếp. Các biện pháp gián
    tiếp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao tính cạnh tranh bền vững cho DN
    như cải thiện năng suất, chất lượng, cải cách hệ thống thuế, tài chính, hành chính, cơ sở hạ
    tầng, giảm chi phí đầu vào . Các biện pháp trực tiếp nhằm kích thích nhu cầu, bao gồm
    nội dung XTXK truyền thống cùng với nỗ lực của chính phủ trong đàm phán hội nhập
    kinh tế quốc tế.
    2) G. Albaum, J. Strandskov và E. Duerr trong “Quản trị XK và Marketing quốc
    tế” [5] quan niệm XTXK bao gồm các chính sách và chương trình do các tổ
    chức của chính phủ thực hiện nhằm đẩy mạnh hoạt động XK. Các chương trình
    này có thể được tài trợ và thực hiện một cách độc lập bởi chính phủ hoặc phối hợp giữa
    chính phủ với các DN.
    3) Định nghĩa của Todaro Micheal [6] "XTXK là những nỗ lực có chủ đích của
    chính phủ nhằm gia tăng khối lượng XK của một quốc gia thông qua những
    chính sách khích lệ và các biện pháp khác, qua đó thu được nhiều ngoại tệ để
    cải thiện cán cân thanh toán quốc gia"

    Tác giả hoàn toàn tán đồng quan điểm XTXK theo nghĩa rộng. Đó không còn là công việc
    riêng lẻ của các DN nhưng phải có sự phối hợp giữa chính phủ, các tổ chức xúc tiến
    chuyên nghiệp và cộng đồng DN. Do đó, tác giả quan niệm về XTXK như sau "XTXK là
    những nỗ lực chung của cả quốc gia nhằm gia tăng kim ngạch XK của đất nước thông qua
    các biện pháp kinh tế và phi kinh tế, nhờ đó thu được nhiều ngoại tệ hơn góp phần cải
    thiện cán cân thanh toán quốc gia"
    1.1.2. Xúc tiến XK và xúc tiến thương mại (XTTM)
    Ngày nay, thuật ngữ XTTM (trade promotion) phổ biến hơn so với XTXK (export
    promotion) tuy trong hầu hết trường hợp, XTTM vẫn mang ý nghĩa của XTXK. Thực ra,
    XTTM là một thuật ngữ bao hàm ba nội dung: XTXK, xúc tiến nhập khẩu và XTTM trên
    thị trường nội địa. Tuy nhiên ở các quốc gia đang phát triển, XTTM thường được đồng
    nhất với XTXK do tầm quan trọng của XK đối với phát triển kinh tế quốc gia.
    e Kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc trong thập niên 50 ~ 60 của thế kỷ 20
    và thực tiễn của các nước đang phát triển cho thấy XTTM cũng chính là XTXK.
    Điều này được phản ánh một cách rõ rệt trong hoạt động XTTM của các quốc
    gia này.
    e Tài liệu huấn luyện về XTTM của UNESCAP cũng xem XTTM cũng là XTXK
    [7].
    e Diễn đàn “Định nghĩa lại XTTM”[8] do ITC khởi xướng vào năm 1999 nhấn
    mạnh đến sự hợp tác giữa chính phủ, TSIs và cộng đồng DN đặt chiến lược XK
    quốc gia là trọng tâm của hoạt động XTTM, đồng thời nhấn mạnh đến các giải
    pháp về XTXK trong bối cảnh thương mại thế giới có nhiều biến động như hiện
    nay.
    Tại Việt Nam, nội dung của nhiều văn bản pháp luật quan trọng cũng thể hiện quan điểm
    xem XTTM và XTXK là một.
    e Chiến lược Phát triển Kinh tế - xã hội 2001 - 2010 nêu “Chủ động và tích cực
    thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế
    giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi
    cơ hội mở thị trường mới. Từng bước hiện đại hoá phương thức kinh doanh phù

    CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG CÁC TỔ CHỨC XTXK CHÍNH PHỦ
    2.1. Khái quát

    Việt Nam bắt đầu tiến hành cải cách kinh tế từ năm 1986, tuy nhiên hoạt động xúc tiến XK
    (XTXK) của Việt Nam đến đầu thập niên 90 vẫn còn mang tính tự phát và tản mạn, vai trò
    XTXK của chính phủ trong giai đoạn này còn chưa thể hiện rõ.
    Ngày 18/11/1996, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết số 01-NQ/TW về mở rộng và nâng cao
    hiệu quả kinh tế đối ngoại, yêu cầu chính phủ "Nghiên cứu thành lập trung tâm khuếch
    trương thương mại để làm tốt công tác thúc đẩy XK và là đầu mối đặt quan hệ, trao đổi
    kinh nghiệm với các tổ chức tương tự ở một số nước trong khu vực và trên thế giới, có kế
    hoạch cụ thể cho các tổ chức kinh tế của ta đặt VPĐD ở nước ngoài để nghiên cứu thị
    trường, tìm đối tác XK".
    Sau khi có chủ trương của Đảng, hoạt động XTXK đã phát triển nhanh chóng trong những
    năm tiếp theo. Lần lượt các tổ chức XTXK của Việt Nam đã hình thành, bao gồm Cục
    XTTM (Vietrade); các trung tâm XTTM địa phương; các hiệp hội ngành nghề; hệ thống
    thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Ngoài ra, cùng với làn sóng đầu tư nước ngoài vào
    Việt Nam, các tổ chức XTXK nước ngoài, hiệp hội DN nước ngoài và hàng ngàn VPĐD
    doanh nghiệp nước ngoài đã vào hoạt động tại Việt Nam. Như vậy, "phần cứng" hay bộ
    khung của mạng lưới XTXK quốc gia xem như đã cơ bản thành hình.
    Bên cạnh đó, "phần mềm" hay chiến lược, nội dung hoạt động và phối hợp giữa các tổ
    chức XTXK nói trên vẫn còn đang bị các DN trong nước chỉ trích mạnh mẽ. Điều đó cho
    thấy hoạt động của các tổ chức XTXK vẫn chưa đi sát với nhu cầu thực tiễn và còn phải
    cải thiện nhiều mặt.
    Tuy nhiên, điều quan trọng là nhận thức về vai trò của XTXK đã được khẳng định ở cả ba
    cấp: chính phủ, các tổ chức XTXK và cộng đồng DN.
    2.2. Chiến lược, luật và các chính sách chi phối hoạt động XTXK
    2.2.1. Chiến lược phát triển XNK giai đoạn 2001 - 2010






    Chiến lược phát triển XNK giai đoạn 2001-2010 được chính phủ xây dựng nhằm cụ thể
    hoá những định hướng nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã được Đại hội
    Đảng toàn quốc lần thứ IX thông qua.
    Chiến lược đã định hướng nội dung cơ bản của công tác XK giai đoạn này là nỗ lực gia
    tăng tốc độ tăng trưởng XK, chuyển dịch cơ cấu XK theo hướng nâng cao giá trị gia tăng,
    gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao,
    thúc đẩy XK dịch vụ . mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh,
    hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới. Chiến lược đã đề ra các chỉ tiêu XK cụ
    thể như sau:
    Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2010
    Tăng trưởng XK hàng hoá và dịch vụ Bình quân 15%/năm
    Kim ngạch XK hàng hoá 13,5 tỷ USD 54,6 tỷ USD
    Kim ngạch XK dịch vụ 2 tỷ USD 8,1 tỷ 2010
    2.2.2. Luật và các chính sách
    Luật và các chính sách quan trọng liên quan đến XTXK giai đoạn 1999 ~ 2004 được tóm
    tắt và trình bày theo trình tự thời gian trong phụ lục 3 của luận văn.
    2.3. Mạng lưới các tổ chức XTXK chính phủ
    Mạng lưới các tổ chức XTXK chính phủ của Việt Nam bao gồm : e
    Cục XTTM (Vietrade) trực thuộc Bộ Thương mại.
    e Cơ quan hỗ trợ XTXK thuộc một số bộ, ngành.
    e Trung tâm/phòng XTTM địa phương.
    e Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài.
    e Trung tâm giới thiệu hàng Việt Nam ở nước ngoài.
    2.3.1. Cục Xúc tiến Thương mại (Vietrade)
    2.3.1.1. Lịch sử hình thành
    Tiền thân của Vietrade là Ban XTTM của Bộ Thương mại được thành lập vào tháng
    12/1998. Sau đó, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 78/2000/QĐ-TTg ký ngày
    10/08/2000 chính thức thành lập Cục XTTM trực thuộc Bộ Thương mại. Vietrade là tổ
    chức XTXK quốc gia, có vị trí tương tự các tổ chức IE Singapore, DEP (Thailand),
    Matrade (Malaysia), Jetro (Nhật Bản), Kotra (Hàn Quốc) .




    CHƯƠNG 3 - MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CÁC TỔ CHỨC XÚC TIẾN XUẤT KHẨU CHÍNH PHỦ VIỆT NAM

    3.1. Các cơ sở đề xuất giải pháp
    Ngoài căn cứ chủ yếu là thực trạng của các tổ chức XTXK chính phủ và ý kiến của các
    doanh nghiệp thông qua kết quả khảo sát và nguồn dữ liệu thứ cấp đã trình bày trong
    chương 2 , còn có những cơ hội và thách thức mà các tổ chức XTXK chính phủ phải đối
    mặt và những bài học kinh nghiệm của các tổ chức XTXK khác trên thế giới được trình
    bày sau đây.
    3.1.1. Cơ hội và thách thức của các tổ chức XTXK chính phủ
    Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang cùng lúc chịu sức ép từ quá trình chuyển đổi và
    hội nhập, có nhiều vấn đề quan trọng cần được quan tâm. Tuy nhiên, các vấn đề được trình
    bày qua lăng kính những cơ hội và thách thức của các tổ chức XTXK chính phủ sau đây là
    đáng lưu ý hơn cả.
    3.1.1.1. Cơ hội
    e Quyết tâm chính trị của Đảng và Chính phủ trong hội nhập kinh tế và phát
    triển XK.
    Đây là nguyên nhân cơ bản và quan trọng nhất cho mọi thành công về mặt kinh tế nói
    chung và XNK nói riêng của Việt Nam. Hàng loạt quyết sách của Đảng và Chính phủ về
    đẩy mạnh công tác XNK đã được đưa ra.
    Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc
    lần thứ IX của Đảng về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 đã nêu rõ "Nhà
    nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh
    doanh XNK hàng hoá và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những
    sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế; giảm mạnh
    XK sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hoá
    trong sản phẩm; nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ hàm lượng công nghệ
    cao. Xây dựng các quỹ hỗ trợ XK, nhất là đối với hàng nông sản. Khuyến khích sử dụng
    thiết bị, hàng hoá sản xuất


    trong nước. Tăng nhanh kim ngạch XK, tiến tới cân bằng xuất nhập. Thực hiện chính sách
    bảo hộ có lựa chọn, có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước"
    Trên cơ sở đó, Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu giai đoạn 2001-2010 được xây dựng
    nhằm cụ thể hoá những định hướng lớn đã đề ra. Chiến lược đã định hướng nội dung cơ
    bản của công tác XK giai đoạn này là nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng XK, chuyển dịch
    cơ cấu XK theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản
    phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy XK dịch vụ . mở rộng và đa
    dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh, hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và
    thế giới.
    e Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
    Việt Nam đã đạt được thoả thuận song phương với EU về việc gia nhập WTO vào
    ngày 9/10/2004 vừa qua. Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam đã đi được
    70% chặng đường để trở thành thành viên chính thức của WTO. Bộ Thương mại
    cũng bày tỏ hy vọng đàm phán giữa VN với Trung Quốc và Mỹ sẽ nhanh chóng kết
    thúc để Việt Nam và Việt Nam hoàn toàn có thể gia nhập WTO trong năm 2005.
    Mở cửa và hội nhập đã mang lại những kết quả tốt đẹp cho nền kinh tế Việt Nam.
    Sau gần 20 năm đổi mới (1986) và gần 10 năm gia nhập Asean (1995), Việt Nam
    nay đã tiến đến gần mục tiêu cuối cùng của tiến trình hội nhập WTO. Nếu Trung
    Quốc mất 15 năm để được kết nạp vào WTO thì khả năng Việt Nam trở thành thành
    viên chính thức của WTO vào năm 2005 một lần nữa đã chứng tỏ quyết tâm chính
    trị và nỗ lực rất lớn của chính phủ Việt Nam trong rút ngắn tiến trình hội nhập kinh
    tế quốc tế. Một trong những kết quả trực tiếp của hội nhập và hợp tác quốc tế trong
    lĩnh vực XTXK là những dự án phảt triển XTXK khác nhau như đã trình bày ở trên.
    e Những cơ hội do cuộc cách mạng kỹ thuật số và công nghệ thông tin
    Đây là một trong những cơ hội hiếm có do kỹ thuật mang lại mà Việt Nam và các
    quốc gia đang phát triển khác có thể tận dụng để rút ngắn cách biệt với các quốc gia
    công nghiệp.
    Trong lĩnh vực viễn thông, Việt Nam hiện đã có hầu như tất cả các loại dịch vụ viễn thông
    tiên tiến của thế giới. Ngoài mạng điện thoại truyền thống, điện thoại di động theo tiêu
    chuẩn GSM, CDMA, IPASS, mạng Internet tốc độ cao ADSL, điện thoại
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...