Tài liệu Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty Thiết Bị Vật Tư Nông Sả

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty Thiết Bị Vật Tư Nông Sản

    LỜI MỞ ĐẦU
    Hiệu quả kinh tế là một phạm trù có ý nghĩa rất quan trọng trong mọi nền kinh tế trên thế giới. Đối với nước ta, từ một nền sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cùng một lúc phải thực hiện những nhiệm vụ to lớn và cấp bách trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa, thì việc nâng cao hiệu quả kinh tế trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh ở tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị kinh tế cơ sở càng có ý nghĩa quan trọng.
    Việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những cơ hội mới và cả những thách thức mới cho các doanh nghiệp. Với các nguồn lực ngày càng khan hiếm, sự cạnh tranh cũng càng trở nên gay gắt, khốc liệt đã làm cho nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, giải thể, thậm chí phá sản, nhưng cũng có không Ýt các doanh nghiệp do nắm bắt được cơ hội, tổ chức thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả đã trụ vững và ngày càng phát triển. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh càng trở nên có tính chất sống còn đối với các doanh nghiệp.
    Công ty Thiết Bị Vật Tư Nông Sản là một doanh nghiệp Nhà nước đã gặp không Ýt những khó khăn sau chuyển đổi cơ chế quản lý. Để tồn tại và phát triển trong cơ chế mới, Công ty đã mạnh dạn đa dạng hoá các ngành nghề kinh doanh với mục tiêu lâu dài là kinh doanh có hiệu quả. Nhận rõ được vai trò quan trọng của hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như việc không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong thời gian về thực tập và nghiên cứu tình hình sản xuất kinh doanh ở Công ty Thiết Bị Vật Tư Nông Sản, cùng với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo - Th.S Ngô Kim Thanh, em đã quyết định chọn một đề tài nghiên cứu với ước muốn được sáng tỏ những kiến thức đã học được và đóng góp cho việc thực hiện mục tiêu lâu dài của Công ty. Đề tài của em có tên Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty Thiết Bị Vật Tư Nông Sản với nội dung gồm 3 chương:

    Chương I: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
    Chương II: Thực trạng về hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty Thiết Bị Vật Tư Nông Sản trong những năm gần đây.
    Chương III: Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công Ty Thiết Bị Vật Tư Nông Sản.
    Với khả năng và thời gian có hạn, những thiếu sót trong bài viết là không tránh khỏi, em mong nhận được sự thông cảm và góp ý của các thầy, cô giáo và các cán bộ, công nhân viên của Công ty Thiết Bị Vật Tư Nông Sản để bài viết được hoàn thiện.
    Qua bài viết này, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất đến cô giáo - Th.S Ngô Kim Thanh cùng toàn thể cán bộ, công nhân viên của Công Ty Thiết Bị Vật Tư Nông Sản đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành bài viết này.

    Chương I:
    nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục
    tiêu cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp
    trong cơ chế thị trường
    I. hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh:
    1. Các quan điểm cơ bản và bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh:
    1.1. Các quan điểm về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
    Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế đựơc thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh, từ khâu nghiên cứu khảo sát nhu cầu thị trường để quyết định sản xuất đến các khâu tổ chức quá trình sản xuất, mua hàng hoá hoặc làm dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu con người và xã hội, và thông qua hoạt động hữu Ých đó mà kiếm lời. Chính vì vậy để xem xét một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hay không ta có thể xuất phát từ việc tính toán hiệu quả của toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh hay của từng bộ phận lĩnh vực riêng lẻ tức là khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên các góc độ khác nhau để xem xét.
    Nếu hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh tế tức là hiệu số giữa kết quả thu về với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Trên góc độ này mà xem xét thì phạm trù hiệu quả có thể đồng nhất với phạm trù lợi nhuận. Hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp là tuỳ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý trong các doanh nghiệp.
    Nếu đứng trên góc độ từng yếu tố riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả là thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh.
    Cũng giống như một số chỉ tiêu khác, hiệu quả chỉ là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt được hiệu quả cao hay thấp.
    Hiệu quả sản xuất kinh doanh vừa là một phạm trù cụ thể, vừa là phạm trù trìu tượng. Nếu là phạm trù cụ thể thì trong công tác quản lý phải định lượng thành các chỉ tiêu, con số để tính toán, so sánh. Nếu là phạm trù trừu tượng phải được định tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.Có thể nói rằng, phạm trù hiệu quả là kiến thức thường trực của mọi cán bộ quản lý, được ứng dụng rộng rãi vào mọi khâu, mọi bộ phận trong quá trình sản xuất kinh doanh. Từ đây ta có thể chia hiệu quả thành hai loại: hiệu quả sản xuất kinh doanh (hiệu quả kinh tế) và hiệu quả kinh tế-xã hội. Hiệu quả trực tiếp của doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế, còn hiệu quả của ngành hoặc hiệu quả của nền kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế-xã hội.
    Cả hai loại hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp bảo đảm bù đắp chi phí đã bỏ ra và vừa có tích luỹ để tiếp tục quá trình tái sản xuất mở rộng. Còn hiệu quả kinh tế -xã hội đem lại lợi Ých cho xã hội và nền kinh tế quốc dân, nó thể hiện qua việc tăng thu ngân sách cho nhà nước, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người lao động và tái phân phối lợi tức xã hội.
    1.2. Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
    Từ trước đến nay các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
    - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu Ých của sản phẩm sản xuất tức là giá trị sử dụng của nó (hoặc là doanh thu và nhất là lợi nhuận thu được sau quá trình kinh doanh). Khái niệm này lẫn lộn giữa hiệu quả và mục tiêu kinh doanh.
    - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế phản ánh nhip độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này chỉ là phiến diện, chỉ đúng trên mức độ biến động theo thời gian.
    - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng kết quả. Đây là biểu hiện của bản chất chứ không phải là khái niệm về hiệu quả kinh tế.
    - Hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra. Điển hình cho quan điểm này là tác giả Manfred- Kuhn và quan điểm này được nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng vào tính hiệu quả kinh tế của các quá trình sản xuất kinh doanh.
    - Một số tác giả lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của kết quả với lượng các nhân tố đầu vào (giê lao động, giá trị nguyên vật liệu, .). Quan điểm này xác định hiệu quả trên từng yếu tố cụ thể nào đó .
    Từ các khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh trên ta có thể đưa ra một số khái niệm ngắn gọn như sau: hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, vốn và các yếu tố khác) nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đã đề ra.
    1.3. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh:
    Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu này càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
    Để hiểu rõ hơn về bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh, ta cũng cần phân biệt giữa hai khái niệm hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh doanh nhất định, kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Trong khi đó trong khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh, người ta sử dụng cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh.
    Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay chính xác hơn là đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí để tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của việc lựa chọn tốt nhất đã bị bỏ qua hay là giá trị của sự hy sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện hoạt động kinh doanh này. Chi phí cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán và loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để thấy rõ lợi Ých kinh tế thật sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương án kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả hơn.
    2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
    Hiệu quả kinh doanh là một trong các công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị thực hiện các chức năng của mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh doanh không những chỉ cho biết việc sản xuất đạt ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích, tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả. Với tư cách là một công cụ đánh giá và phân tích kinh tế, phạm trù hiệu quả không chỉ được sử dụng ở giác độ tổng hợp, đánh giá chung trình độ sử dụng tổng hợp đầu vào trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà còn được sử dụng để đánh giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận cấu thành của doanh nghiệp.
    Ngoài ra, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn là sự biểu hiện của việc lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tự lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh cho mình phù hợp với trình độ của doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải sử dụng tối ưu nguồn lực sẵn có. Nhưng việc sử dụng nguồn lực đó như thế nào để có hiệu quả lại là một bài toán mà nhà quản trị phải lựa chọn cách giải. Chính vì vậy, ta có thể nói rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh không chỉ là công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị thực hiện các chức năng quản trị của mình mà còn là thước đo trình độ của nhà quản trị.
    Ngoài hai chức năng trên của hiệu quả sản xuất kinh doanh, sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn do vai trò quan trọng của nó trong cơ chế thị trường.
    Thứ nhất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại đó, đồng thời mục tiêu của doanh nghiệp là luôn tồn tại và phát triển một cách vững chắc. Do vậy việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay. Do yêu cầu của sự tồn tại và phát triển của mỗi Doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập của Doanh nghiệp phải không ngừng tăng lên. Nhưng trong điều kiện nguồn vốn và các yếu tố kỹ thuật cũng như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các Doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vậy, hiệu quả kinh doanh là điều kiện hết sức quan trọng trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp.
    Một cách nhìn khác sự tồn tại của Doanh nghiệp được xác định bởi sự tạo ra hàng hoá, của cải vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã hội, đồng thời tạo ra sự tích luỹ cho xã hội. Để thực hiện được như vậy thì mỗi doanh nghiệp đều phải vươn lên để đảm bảo thu nhập đủ bù đắp chi phí bỏ ra và có lãi trong quá trình hoạt động kinh doanh. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu tái sản xuất trong nền kinh tế. Và như vậy chúng ta buộc phải nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách liên tục trong mọi khâu của quá trình hoạt động kinh doanh như là một nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên, sự tồn tại mới chỉ là yêu cầu mang tính chất giản đơn còn sự phát triển và mở rộng của Doanh nghiệp mới là yêu cầu quan trọng. Bởi vì sự tồn tại của Doanh nghiệp luôn luôn phải đi kèm với sự phát triển mở rộng của Doanh nghiệp, đòi hỏi phải có sự tích lũy đảm bảo cho quá trình tái sản xuất mở rộng theo đúng quy luật phát triển.
    Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các Doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Song khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không còn là sự cạnh tranh về mặt hàng mà cạnh tranh về mặt chất lượng, giá cả và các yếu tố khác. Trong khi mục tiêu chung của các Doanh nghiệp đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm cho các Doanh nghiệp mạnh lên nhưng ngược lại cũng có thể là cho các Doanh nghiệp không tồn tại được trên thị trường. Để đạt được mục tiêu là tồn tại và phát triển mở rộng thì Doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trường. Do đó Doanh nghiệp phải có hàng hoá dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lí. Mặt khác hiệu quả kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá thành, tăng khối lượng hàng hoá bán, chất lượng không ngừng được cải thiện nâng cao .
    Thứ ba, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là nhân tố cơ bản tạo ra sự thắng lợi cho Doanh nghiệp trong quá trình hoạt động trên thị trường. Muốn tạo ra sự thắng lợi trong cạnh tranh đòi hỏi các Doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiêụ quả kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng tồn tại, phát triển của mỗi Doanh nghiệp.
    3. Những biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh:
    Hiệu quả kinh doanh chẳng những bị ảnh hưởng của những nhân tố bên trong, còn luôn bị tác động của các yếu tố môi trường bên ngoài. Chính vì vậy, muốn đạt được hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp không chỉ có những điều kiện, biện pháp sử dụng nguồn lực bên trong một cách hiệu quả mà phải nắm bắt các bất trắc của môi trường có thể có, đưa ra những biện pháp đối phó, thậm chí có thể lấy đó làm cơ hội cho việc kinh doanh.
    3.1. Nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp:
    Hiệu quả kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó trình độ quản trị doanh nghiệp đóng vai trò quyết định. Việc thực hiện tốt bốn chức năng cơ bản: Hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra là điều kiện tiên quyết để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ việc xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược, tổ chức các nguồn lực doanh nghiệp, xây dựng bộ máy quản lý, tác nghiệp, bố trí sử dụng nhân sự, các biện pháp đôn đốc, thúc đẩy, động viên và kiểm soát. Ngoài ra quản trị còn nghiên cứu các yêu tố môi trường, theo dõi, dự báo những biến động, thay đổi có thể có nhằm hạn chế những tổn thất, thiệt hại cho quá trình sản xuất kinh doanh.
    Để thực hiện được biện pháp này cần nhận thức, hiểu rõ vai trò, tầm quan trọng của quản trị đối với doanh nghiệp. Nói chung trước tình hình kinh doanh hiện nay, nhiều doanh nghiệp đi vào chỗ thua lỗ, phá sản là có nhiều nguyên nhân. Nhưng ta có thể khẳng định một trong những nguyên nhân cơ bản nhất đó chính là sự yếu kém về quản trị của các nhà quản trị. Vì vậy, trước tiên cần phải trang bị hay trang bị lại những kiến thức quản trị kinh doanh hiện đại, tạo điều kiện cho các cán bộ quản lý tham gia vào các khoá đào tạo, bồi dưỡng về quản trị. Học hỏi các kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển.
    Việc có được trình độ quản lý cao là cơ sở để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tổ chức như vốn, nhân sự, công nghệ . cũng như việc làm chủ được các yếu tố bên ngoài như thị trường, giá cả, hạn chế những lãng phí, tổn thất.
    3.2. Xây dựng cấu trúc tổ chức hợp lý:
    Mét trong những nguyên nhân phổ biến làm doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả chính là do cơ cấu tổ chức cồng kềnh, trì trệ, hoạt động không hiệu quả. Vì vậy, để hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả cần phải có cơ cấu tổ chức hợp lý, có khả năng dẫn dắt đơn vị đến mục tiêu đề ra, tạo được những tác động kết hợp các nguồn lực doanh nghiệp, tác động thúc đẩy các nguồn lực phát triển. Cần phải có một cơ cấu gọn nhẹ hơn, đồng thời lại mang đến một kết quả lớn hơn.
    Khi các doanh nghiệp thất bại hoặc suy giảm thường hay đổi cho các yếu tố khách quan, cho rằng do môi trường kinh doanh khó khăn, do cạnh tranh gay gắt khốc liệt. Nhưng cũng trong các hoàn cảnh đó lại có những doanh nghiệp ăn nên làm ra. Vậy nguyên nhân là do cơ cấu tổ chức trước đã xơ cứng, lỗi thời, không còn phù hợp, không linh hoạt và không có khả năng thay đổi, thích nghi một cách nhanh chóng với môi trường, từ đó dẫn đến thua lỗ, phá sản. Vì vậy để đáp ứng với sự thay đổi, duy trì hiệu quả hoạt động, doanh nghiệp buộc phải tái cấu trúc tổ chức, tạo sức sống mới cho doanh nghiệp.


    3.3. Xác định mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp:
    Mỗi doanh nghiệp cần có cái nhìn đúng đắn về hiện trạng doanh nghiệp, môi trường hoạt động để đề ra mục tiêu xác đáng, các chiến lược, giải pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Với mục tiêu đề ra, các doanh nghiệp phải xây dựng các chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ. Doanh nghiệp không phải lúc nào cũng theo đuổi chiến lược phát triển, phát triển với một tốc độ nhanh chóng như việc theo đuổi quá nhiều dự án, những siêu dự án. Những chiến lược phát triển như vậy dễ dẫn đến mất cân đối tài chính, tài chính bị dàn trải và dễ dẫn đến sự phá sản. Hơn nữa hầu hết các dự án chỉ luôn đưa ra những số liệu tính toán theo hướng lạc quan mà không tính đến khía cạnh ngược lại của nó là bi quan. Khi dự án gặp phải tình hình thị trường bất lợi, đối thủ cạnh tranh mạnh, giá bán giảm . lúc đó ta không lượng được những rủi ro, những thua lỗ, thất bại có thể có và khi tình hình không như mong muốn doanh nghiệp sẽ bị rơi vào tình trạng phá sản.
    3.4. Yếu tố con người - sự quan tâm hàng đầu:
    Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chóng ta không thể không quan tâm đến yếu tố con người, đây là chính là thách thức lớn nhất đối với quản lý. Làm sao có được một đội ngũ lao động lành nghề, luôn học hỏi, có nỗ lực, có nhiệt tình cao trong công việc. Đó là điều kiện đảm bảo cho sự thành công của doanh nghiệp. Muốn vậy phải nhận thức được vai trò quan trọng của yếu tố con người, phải thường xuyên tạo điều kiện cho người lao động nâng cao trình độ, đưa ra những ý kiến đóng góp, kích thích tinh thần sáng tạo và tinh thần tích cực trong công việc nhờ các hình thức khuyến khích bằng vật chất và tinh thần làm người lao động thoả mãn, gắn bó với doanh nghiệp.
    3.5. Tạo vốn kinh doanh :
    Khó khăn chung của hầu hết các doanh nghiệp là thiếu vốn bởi vì nó bổ sung vốn cơ bản trong suốt quá trình kinh doanh. Toạ vốn bằng hình thức đi vay sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp phải luôn mang gánh nặng lãi suất. Hơn nữa vốn vay lớn tạo ra sự mất cân đối lớn trong cơ cấu vốn, chứa đựng nhiều sự bấp bênh rủi ro.Vì vậy không nên lạm dụng vốn vay, khi sử dụng biện pháp vay vốn cần phảicó kế hoạch sử dụng hiệu quả và có biện pháp phòng chống những rủi ro có thể từ yếu tố này.
    Để đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh doanh,biện pháp cổ phần hoá doanh nghiệp, hình thành thị trường chứng khoán là một biện pháp hữu hiệu nhằm huy động vốn cho các doanh nghiệp. Xác định cơ cấu vốn hợp lý, chặt chẽ và thích ứng với quy mô doanh nghiệp, tránh không lạm dụng vốn vay quá mức, đặc biệt là vốn vay ngắn hạn. Có những biện pháp hữu hiệu đối phó với những biến động về tài chính.
    3.6. Trình độ kỹ thuật và công nghệ:
    Các doanh nghiệp để khẳng định vị trí trên thị trường, để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh, để giảm thiểu chi phí, sản lượng cao đồng thời để thị trường chấp nhận sản phẩm, đòi hỏi sản phẩm phải đạt được các tiêu chuẩn, phải đạt được chất lượng sản phẩm. Muốn vậy cần phải tiếp cận với khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến, vận dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, phải không ngừng cải tiến đầu tư công nghệ, chính đó là một nhân tố giúp doanh nghiệp hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.
    3.7 Nghiên cứu môi trường:
    Mỗi doanh nghiệp tồn tại và phát triển đều có sự liên hệ với môi trường và chịu sự tác động của môi trường đến doanh nghiệp. Những tác động của môi trường có thể là thuận lợi hay bất lợi cho doanh nghiệp. Do tính chất quốc tế hoá, khu vực hoá, hoạt động của doanh nghiệp không chỉ còn thuộc phạm vi của một quốc gia hay một vùng nào đó, cho nên doanh nghiệp còn chịu sự tác động của môi trường kinh tế thế giới. Những thay đổi về chính trị, kinh tế, xã hội, công nghệ trên thế giới đều có thể tác động đến doanh nghiệp. Vì vậy muốn hoạt động hiệu quả cần phải quản trị môi trường, đó là việc thu thập thông tin, dự đoán ước lượng thay đổi, bất trắc của môi trường trong và ngoài nước, đưa ra những biện pháp đối phó nhằm giảm bớt những tác động, những tổn thất có thể có do sù thay đổi, bất trắc đó.
    II. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh:
    Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đó chính là việc nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng khác nhau. Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thấy được sự ảnh hưởng có tính tích cực và có tính tiêu cực của các nhân tố đó, xây dựng các chiến lược cho doanh nghiệp nhằm tận dụng những thuận lợi và có biện pháp khắc phục những khó khăn để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
    1.Nhóm nhân tố khách quan:
    1.1. Môi trường kinh tế:
    Bất kì một sự thay đổi trong môi trường kinh tế nào đó đều làm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các chính sách kinh tế của Nhà nước, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, tốc độ lạm phát, thu nhập bình quân trên đầu người, là các yếu tố tác động lớn đến cung và cầu của từng doanh nghiệp. Với một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, các chính sách kinh tế của Nhà nước thuận lợi và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, sự biến động tiền tệ là không đáng kể, lạm phát được giữ mức hợp lý, thu nhập bình quân đầu người tăng . sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và ngược lại.
    Trong nền sản xuất hàng hoá, thị trường là một trong những yếu tố cơ bản quyết định đến quá trình tái sản xuất. Thị trường đầu vào ảnh hưởng đến tính liên tục và tính hiệu quả của sản xuất, còn thị trường đầu ra quyết định quá trình tái sản xuất và tính hiệu quả trong kinh doanh.
    Những đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để thắng thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành để tăng mạnh tiêu thụ, tổ chức sản xuất kinh doanh cho phù hợp để bù đắp những thiệt hại do cạnh tranh về giá, về chất lượng, về mẫu mã. Như vậy, đối thủ cạnh tranh vừa là nhân tố mang lại trở ngại vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của doanh nghệp. Nhưng nhìn chung thì sự xuất hiện của đối thủ cạnh tranh sẽ làm hiệu quả sản vuất kinh doanh của doanh nghiệp giảm đi tương đối.
    Môi trường kinh tế quốc tế và khu vực cũng là nhân tố ảnh hưởng mạnh đến hiệu quản sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như việc lựa chọn và sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Và ngược lại nếu môi trường kinh tế bất ổn định sẽ gây ra những khó khăn cho doanh nghiệp, như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp trong khu vực nói chung và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng, nhưng ngược lại việc tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN và chuẩn bị gia nhập AFTA của Việt Nam đã mở rộng các mối quan hệ của doanh nghiệp, tạo cơ hội cho doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
    1.2. Môi trường thể chế:
    Sự ổn định về hệ thống tài chính, sự nhất quán trong đường lối chủ trương của Đảng luôn là tiền đề cho sự phát triển và mở rộng các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để doanh nghiệp có thể yên tâm đầu tư vào việc phát triển doanh nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu, tìm cách nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
    Môi trường này tác động trực tiếp tới quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các công cụ luật pháp như Luật, các văn bản dưới Luật, các quy trình quy phạm kỹ thuật sản xuất, tạo ra một hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh của mình. Luật pháp tác động không chỉ lên ngành nghề, mặt hàng sản xuất, phương thức sản xuất kinh doanh mà còn quy định việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước, với xã hội và với người lao động (thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, trách nhiệm đảm bảo vệ sinh môi trường, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, .). Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu còn chịu sự quản lý của nhà nước thông qua các chính sách thương mại quốc tế, hạn ngạch, luật bảo hộ, bảo lãnh cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh. Có thể nói rằng, môi trường thể chế là nhân tố kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp nhưng cũng có thể là một môi trường ổn định khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp, tạo ra một hành lang pháp lý công bằng cho tất cả các doanh nghiệp là cầu nối cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh của mình ra quốc tế và khu vực, thông qua đó hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng được không ngừng nâng cao.

    1.3. Môi trường công nghệ:
    Xu hướng phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ và tình hình ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ trên thế giới cũng như trong nước ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản phẩm, tức là ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế, thế giới đã chứng kiến sự biến đổi công nghệ làm khủng hoảng, thậm chí mất đi nhiều lĩnh vực kinh doanh nhưng xuất hiện những lĩnh vực kinh doanh mới hoặc làm phát triển hơn các lĩnh vực đã có.
    Các sản phẩm của công nghệ mới như các sản phẩm cải tiến, sản phẩm đổi mới, nguyên vật liệu mới, nguyên vật liệu thay thế với sự xuất hiện các quy trình công nghệ có năng suất, chất lượng hiệu quả hơn. Đó có thể là các cơ hội nhưng cũng có thể là các nguy cơ. Là cơ hội đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư cho các loại công nghệ phù hợp với trình độ của doanh nghiệp và biết sử dụng có hiệu quả, ngược lại là nguy cơ đối với các doanh nghiệp không nắm bắt được các thông tin về công nghệ và không biết sử dụng nó một cách có hiệu quả.
    Sù thay đổi của công nghệ có ảnh hưởng tới chu kỳ sống của một sản phẩm hoặc dịch vụ, nó có thể kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, một số sản phẩm sẽ có giai đoạn phát triển mới sau giai đoạn suy thoái, do đó hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ được nâng cao. Ngoài ra sù thay đổi công nghệ cũng ảnh hưởng tới phương pháp sản xuất, tới nguyên vật liệu cũng như tới thái độ ứng xử của người lao động. Chính vì vậy nó ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn cố định, vốn lưu động và lao động.
    Nhìn chung môi trường công nghệ có ảnh hưởng tới trình độ kỹ thuật công nghệ và khả năng đổi mới kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng sản phảm tức là ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
    1.4. Môi trường văn hoá xã hội:
    Trong thời gian trung và dài hạn, môi trường văn hoá xã hội có thể là nhân tố thay đổi lớn nhất. Lối sống thay đổi nhanh chóng theo xu hướng du nhập luôn là cơ hội cho nhiều nhà sản xuất. Vì vậy doanh nghiệp phải tính đến những sự thay đổi về thái độ tiêu dùng, tháp tuổi, tỷ lệ kết hôn và sinh đẻ từ đó có sự thay đổi về chiến lược sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả.
    Tình trạng thất nghiệp cũng tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Nếu tình trạng thất nghiệp cao thì chi phí sử dụng lao động sẽ giảm làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh nhưng tình trạng này sẽ dẫn đến nhu cầu tiêu dùng giảmvà có thể đẫn đến tình trạng an ninh chính trị mất ổn định, do vậy lại làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại nếu tình trạng thất nghiệp thấp, người lao động có nhiều cơ hội lựa chọn việc làm thì chi phí sử dụng lao động của doanh nghiệp cao, do đó làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng bù lại thu nhập của người lao động tăng dẫn tới việc tăng tiêu dùng làm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên.
    Trình độ văn hoá ngày càng cao có ảnh hưởng tới khả năng đào tạo cũng như chất lượng chuyên môn của người lao động từ đó làm tăng hiệu quả sử dụng lao động của doanh nghiệp. Ngoài ra trình độ văn hoá của người dân còn ảnh hưởng tới nhu cầu sản phẩm của doanh nghiệp, nó đòi hỏi sản phẩm ngày càng phải có chất lượng cao và phải phù hợp với nhiều loại nhu cầu khác nhau.
    Tuỳ từng vùng địa lý khác nhau mà trình độ văn hoá-xã hội của người dân cũng khác nhau, do vậy doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở vùng nào thì phải nắm bắt được trình độ văn hoá của người dân ở đó để làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
    1.5. Môi trường tự nhiên:
    Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố: thời tiết, khí hậu, mùa vụ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý . là các nhân tố ngoại ứng có ảnh hưởng sâu sắc đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
    Các loại tài nguyên thiên nhiên ảnh hưởng đến chi phí nguyên vật liệu, năng lượng, ảnh hưởng tới tiến độ sản xuất, năng suất và chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên.Doanh nghiệp nào có nguồn cung ứng tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong phú sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng chúng và ngược lại thì doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí cho việc khắc phục tình trạng khó khăn này như phải trả giá cao hơn hoặc chi phí cho các nguyên vật liệu nhập khẩu dẫn tới chi phí sản xuất tăng từ đó giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
    Thời tiết, khí hậu, mùa vụ ảnh hưởng đặc biệt đến các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ hải sản và các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng có tính chất mùa vụ. Doanh nghiệp cần phải đầu tư cho bảo quản dự trữ nguyên vật liệu và thành phẩm để tránh những ảnh hưởng tiêu cực, đảm bảo ổn định sản xuất kinh doanh.
    Vị trí địa lý có liên quan đến các khâu quan trọng như sản xuất, giao dịch, vận chuyển. Có một vị trí địa lý thuận lợi gần nguồn cung ứng, thị trường, cơ sở hạ tầng phát triển (Hệ thống đường xá, giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống ngân hàng tín dụng, mạng lưới điện nước quốc gia .) sẽ làm giảm chi phí vận chuyển, giao dịch, tăng khả năng thu thập thông tin, khả năng huy động và sử dụng vốn của các doanh nghiệp. Do đó nó có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
    Tình trạng môi trường, các vấn đề về xử lý phế thải, ô nhiễm, các ràng buộc xã hội về môi trường . đều có tác động nhất định đến chi phí kinh doanh, năng suất và chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện cho tăng năng suất lao động dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được nâng cao.
    2. Nhóm nhân tố chủ quan:
    Là nhóm nhân tố doanh nghiệp màcó thể kiểm soát đựơc cũng như có thể điều chỉnh ảnh hưởng của nó.
    2.1. Lực lượng lao động:
    Lao động là một trong những nhân tố khó xem xét và việc đánh giá dự đoán kết quả tác động của nhân tố này đến hiệu qủa sản xuất kinh doanh thường khó chính xác.
    Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì việc đưa chúng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là điều tất nhiên, nhưng vai trò quan trọng của con người là không thể phủ nhận được trong lực lượng sản xuất. Trình độ, năng lực và tinh thần trách nhiệm của người lao động là nhân tố tác động trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra công tác tổ chức phân công hiệp tác lao động hợp lý sao cho phát huy tốt nhất năng lực, sở trường của người lao động là một yêu cầu không thể thiếu trong quản trị nhân lực của doanh nghiệp nhằm đạt hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc bố trí nhân lực trong mỗi Công ty phụ thuộc vào nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, vào chiến lược kinh doanh, kế hoạch kinh doanh mà doanh nghiệp đã đề ra. Việc tổ chức nhân sự của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải tuân thủ các nguyên tắc chung là sử dụng đúng người, đúng việc; quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng sao cho có thể thực hiện nhanh nhất, tốt nhất các nhiệm vụ được giao, đồng thời phải khuyến khích phát huy được tính độc lập sáng tạo của người lao động, có như vậy sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
    Tiền lương và thu nhập của người lao động có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, vì tiền lương là một bộ phận lớn cấu thành nên chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tiền lương cao thì chi phí sản xuất kinh doanh sẽ tăng do đó làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhưng mặt khác nó lại khuyến khích người lao động tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm dẫn dến tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và ngược lại. Vì vậy doanh nghiệp cần lưu ý sử dụng các chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu nhập, các biện pháp khuyến khích sao cho hợp lý, hài hoà giữa lợi Ých của người lao động và lợi Ých của doanh nghiệp.
    2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật:
    Cơ sở vật chất kỹ thuật là tài sản cố định của doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, gồm nhà cửa, kho tàng, bến bãi, máy móc thiết bị đem lại sức mạnh kinh doanh cho doanh nghiệp trên cơ sở sức sinh lời của tài sản. Cơ sở vật chất kỹ thuật thể hiện trình độ phát triển của doanh nghiệp và góp phần đáng kể vào thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp càng được bố trí hợp lý bao nhiêu thì càng góp phần đem lại hiệu quả cao bấy nhiêu. Nó thể hiện trình độ quản lý tài sản cố định. Một hệ thống có máy móc thiết bị, nhà xưởng, bến bãi, kho tàng nếu được sắp xếp hợp lý với các giai đoạn sản xuất, thuận tiện cho việc vận chuyển thì tiết kiệm được thời gian, làm giảm chi phí sản xuất. Hơn nữa doanh nghiệp nếu có cơ sở vật chất kỹ thuật được bố trí gần thị trường đầu vào, thị trường đầu ra, thuận tiện với hệ thống giao thông, mạng điện nước quốc gia sẽ đem lại cho doanh nghiệp một tài sản vô hình rất lớn và đó là lợi thế kinh doanh đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao.
    Trình độ kỹ thuật và trình độ công nghệ sản xuất ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng tới mức độ tiết kiệm hay lãng phí nguyên vật liệu, do đó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có trình độ sản xuất cao, có công nghệ sản xuất tiên tiến và hiện đại sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Còn nếu trình độ sản xuất thấp kém hoặc lạc hậu hay thiếu đồng bộ sẽ làm cho năng suất, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp giảm, sử dụng lãng phí nguyên vật liệu dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị thấp.
    2.3. Nhân tố quản trị trong doanh nghiệp.
    Bộ máy quản trị trong các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến thành công cũng như thất bại của doanh nghiệp. Trong quản trị, thước đo hiệu quả của nhà quản trị chính là việc ra các quyết định quản trị đúng đắn.
    Bộ máy quản trị doanh nghiệp phải đồng thời thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, tự hoạt động lập kế hoạch kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp, tổ chức thực hiện các kế hoạch, các phương án và các hoạt động sản xuất kinh doanh đã đề ra cho tới việc tổ chức kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh cho các giai đoạn sau. Với chức năng vô cùng quan trọng của bộ máy quản trị doanh nghiệp, ta có thể khẳng định rằng chất lượng chất lượng của bộ máy quản trị quyết định rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhân tố này cho phép doanh nghiệp sử dụng hợp lý và tiết kiệm các yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh, giúp lãnh đạo doanh nghiệp đề ra những quyết định và chỉ đạo sản xuất kinh doanh chính xác và kịp thời, tạo ra những động lực to lớn để kích thích sản xuất phát triển. Một doanh nghiệp có năng lực quản trị non kém sẽ không thể đứng vững trước sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Nếu bộ máy quản trị được bố trị có cơ cấu phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, gọn nhẹ, linh hoạt, có sự phân chia nhiệm vụ chức năng rõ ràng, có cơ chế phối hợp hoạt động hợp lý, tránh được sự chồng chéo trách nhiệm vì chống được sức ỳ trong quản trị, chi phí hành chính sẽ được giảm đi góp phần tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Và ngược lại nếu bộ máy quản trị của doanh nghiệp được tổ chức không hợp lý (quá cồng kềnh hoặc quá đơn giản), chức năng nhiệm vụ chồng chéo, không rõ ràng hoặc là phải kiệm nhiệm quá nhiều, sự phối hợp trong hoạt động không chặt chẽ, các quản trị viên thì thiếu năng lực và tinh thần trách nhiệm sẽ dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không cao.
    Nhân tố quản trị còn có nhiệm vụ quan trọng nữa là vận dụng linh hoạt các đòn bẩy kinh tế, xây dựng được hệ thống trao đổi và xử lý thông tin. Vận dụng các đòn bẩy kinh tế cho phép các doanh nghiệp khai thác tối đa tiềm năng về lao động, tạo điều kiện cho mọi người, mọi khâu, mọi bộ phận phát huy đầy đủ quyền chủ động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Còn việc xây dựng và sử dụng hệ thống thông tin đó có hiệu quả cũng tạo ra một lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Thông tin chia làm hai nguồn: thông tin bên ngoài và thông tin nội bộ. Thông tin nội bộ có thể là sự phản ánh của nhân viên về những khuyết tật của sản phẩm được phát hiện ra trong quá trình sản xuất và ý kiến của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp và sản phẩm của đối thủ cạnh tranh . Thông tin từ bên ngoài có thể là thông tin về đối thủ cạnh tranh, thông tin về những thay đổi trong chính sách của Nhà nước và việc biết trước có thể đem lại cho doanh nghiệp một lợi thế vô cùng to lớn.
    III. Phương pháp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh:
    1. Phương pháp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh:
    Có hai phương pháp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh:
    - Phương pháp đánh giá hiệu quản sản xuất kinh doanh được đo bằng hiệu số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
    H = K - C
    Trong đó:
    H: Hiệu quả sản xuất kinh doanh.
    K: Kết quả đạt được
    C: Chi phí bỏ ra.

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    - Phương pháp đánh giá tương đối hiệu quả sản xuất kinh doanh đựơc xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt đựơc với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
    Hiện nay, phương pháp đánh giá này đựoc áp dụng nhiều trong các doanh nghiệp do nó có ưu điểm hơn phương pháp đánh giá tuyệt đối, bởi vì phương pháp này biểu hiện được tương quan về chất và lượng, giữa kết quả với chi phí, phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này.
    Mét quan điểm đưa ra khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, là chúng ta phải xem xét một cách toàn diện cả về mặt thời gian và không gian, cả về mặt định tính và định lượng của sản xuất kinh doanh.
    a. Về thời gian.
    Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh ta có thể tính toán được hiệu quả đạt được trong từng giai đoạn, nhưng về nguyên tắc thì hiệu quả của từng giai đoạn không được làm giảm hiệu quả khi xem xét trong thời kỳ dài hoặc hiệu quả của chu kỳ sản xuất trước không được làm hạ thấp hiệu quả của chu kỳ sau. Trong nhiều trường hợp vì lý do nào đó chỉ thấy lợi Ých trước mắt mà không thấy lợi Ých lâu dài, như việc nhập một số thiết bị máy móc cũ kỹ, lạc hậu hoặc xuất khẩu hàng loạt các tài nguyên thiên nhiên sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất lâu dài của doanh nghiệp. Ngoài ra làm tăng chi phí cải tạo môi trường tự nhiên, tăng chi phí hiện đại hoá và đổi mới tài sản cố định dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế xã hội đề bị giảm đi.
    b. Về mặt không gian:
    Hiệu quả của hoạt động kinh tế cụ thể nào đó ảnh hưởng tăng hoặc giảm đến hiệu quả kinh tế của cả hệ thống mà nó liên quan tức là có sự ảnh hưởng giữa các ngành kinh tế này với các ngành kinh tế khác, giữa từng bộ phận với toàn bộ hệ thống, giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
    Vì vậy khi xem xét hiệu quả phải xem xét một cách toàn diện, hiệu quả Êy phải không làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả chung của nền kinh tế quốc dân thì mới được coi là hiệu quả kinh tế.
    c. Về mặt định tính:
    Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt chẽ với hiệu quả của toàn xã hội. Doanh nghiệp có hiệu quả cao chưa chắc đã mang lại hiệu quả cho xã hội. Và ngược lại hiệu quả xã hội trong nhiều trường hợp là mặt có tính quyết định khi lựa chọn một giải pháp kinh tế.
    Khi đánh giá hiệu quả của một hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà còn phải đánh giá chất lượng của kết quả đạt được. Kết quả đạt được trong sản xuất mới bảo đảm được yêu cầu tiêu dùng trong toàn xã hội. Vấn đề cần được xem xét ở đây là kết quả được tạo ra ở mức độ nào, với giá trị nào. Do vậy việc đánh giá hiệu quả sản xuất không chỉ đánh giá ở kết quả mà phải xem doanh nghiệp sản xuất tạo ra kết quả như thế nào, bằng phương tiện gì, trình độ ra làm sao.
    d. Về mặt định lượng:
    Hiệu quả kinh tế phải được thể hiện thông qua mối tương quan giữa thu và chi theo hướng tăng thu giảm chi. Điều đó có nghĩa là sử dụng tiết kiệm tối đa mức chi phí sản xuất kinh doanh để tạo ra nhiều sản phẩm có Ých nhất. Như vậy đứng trên góc độ của nền kinh tế quốc dân, việc nâng cao hiệu quả của một doanh nghiệp phải luôn luôn gắn chặt với hiệu quả toàn xã hội, mang lại hiệu quả kinh tế cho đơn vị phải đảm bảo hiệu quả kinh tế ngành, địa phương. Nói cách khác, khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh cần phải quán triệt một số quan điểm sau:
    - Bảo đảm sự kết hợp hài hoà các loại lợi Ých xã hội, lợi Ých tập thể, lợi Ých người lao động, lợi Ých trước mắt và lợi Ých lâu dài . quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải xuất phát từ việc thoả mãn một cách thích đáng nhu cầu của các chủ thể trong mối quan hệ mắt xích phụ thuộc lẫn nhau.
    - Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo quan điểm này thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải là sự kết hợp hài hoà giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh của các bộ phận trong doanh nghiệp với hiệu quả toàn doanh nghiệp.
    - Phải bảo đảm tính thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm, điều kiện kinh tế xã hội của ngành, của địa phương và của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
    - Đảm bảo thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị-xã hội với nhiệm vụ kinh tế trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
    - Đánh giá hiệu quả kinh doanh phải căn cứ vào cả mặt hiện vật lẫn giá trị hàng hoá. Theo quan điểm này đòi hỏi việc tính toán đánh giá hiệu quả phải đồng thời chú trọng cả hai mặt hiện vật và giá trị, ở đây mặt hiện vật thể hiện ở số lượng sản phẩm và chất lượng sản phẩm, còn mặt giá trị là biểu hiệu bằng tiền của giá trị sản phẩm.
    2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh:
    2.1. Nhóm chỉ tiêu tổng hợp:
    Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm:

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    - Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng chi phí
    Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này cao khi tổng chi phí thấp, do vậy nó có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp tìm ra các biện pháp giảm chi phí để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.


    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    - Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng vốn sản xuất (sức sản xuất của vốn):
    Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp: một đồng vốn kinh doanh sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Do đó, nó có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp trong việc quản lý vốn chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả đồng vốn kinh doanh.

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    - Chỉ tiêu doanh lợi theo chi phí:
    Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    - Chỉ tiêu doanh lợi theo vốn kinh doanh
    Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp: một đồng vốn tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó phản ánh trình độ lợi dụng yếu tố vốn của doanh nghiệp.
    - Chỉ tiêu doanh lợi theo doanh thu thuần:

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ một đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này có ý nghĩa khuyến khích doanh nghiệp tăng doanh thu, giảm chi phí hoặc tốc độ tăng doanh thu phải lớn hơn tốc độ tăng chi phí.
    2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cơ bản:
    * Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động.

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    - Chỉ tiêu năng suất lao động:
    Chỉ tiêu này cho biết một lao động sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất.
    - Chỉ tiêu kết quả sản xuất trên một đồng chi phí tiền lương:

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí tiền lương trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu.
    - Chỉ tiêu lợi nhuận bình quân tính cho mét lao động:

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    Chỉ tiêu này cho biết bình quân một lao động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    - Hệ số sử dụng lao động:
    Chỉ tiêu này cho biết trình độ sử dụng lao động của doanh nghiệp.

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    - Hệ số sử dụng thời gian lao động:
    Chỉ tiêu này phản ánh thời gian lao động thực tế so với thời gian lao động định mức, nó cho biết tình hình sử dụng thời gian lao động trong doanh nghiệp.
    * Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định:

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    - Sức sản xuất của vốn cố định:
    Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn có định trong kỳ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    - Sức sinh lợi của vốn cố định:
    Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định trong kỳ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
     
Đang tải...