Tiểu Luận Một hướng tiếp cận giảng dạy VBND trong môn Ngữ Văn THCS

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    A. PHẦN MỞ ĐẦU:

    I. Lý do chọn đề tài:

    1. Cơ sở lý luận:

    - Mục tiêu của môn Ngữ Văn: “góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho họ ra đời hoặc tiếp tục cho họ học lên bậc cao hơn. Đó là những người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè; có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm nhận các giá trị chân thiện mĩ trong nghệ thuật, có năng lực thực hành và sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy, giao tiếp”. Mục tiêu đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành giảm lý thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống.

    - Xuất phát từ yêu cầu đó các văn bản nhật dụng đưa vào chương trình Ngữ Văn THCS, với nội dung “gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại” hướng người học tới những vấn đề thời sự hàng ngày mà mỗi cá nhân, cộng đồng đều quan tâm như môi trường, dân số, sức khỏe cộng đồng, quyền trẻ em Do đó những VB này đã tạo cơ hội rõ rệt hơn cho việc dạy học gắn liền với đời sống, giúp người dạy đạt được mục tiêu: tăng tính thực hành, giảm lý thuyết, gắn bài học với thực tiễn.

    - Trong những năm gần đây, việc ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học đã tạo điều kiện thuận lợi để GV gắn kết những vấn đề được đề cấp đến trong VBND với các vấn đề của đời sống .Đó là việc lồng ghép các kênh hình , tiếng trong bài dạy

    - Theo định hướng của Chuẩn KTKN: đó là “yêu cầu tối thiểu về KT, KN của môn học mà HS cần phải và có thể đạt được sau mỗi đơn vị kiến thức”, nhằm giảm tải chương trình học, chú trọng vạn dụng kiến thức, tăng cường thực hành, gắn nội dung bài học với thực tiễn cuộc sống.

    - Phát triển, hình thành kĩ năng sống cho HS là 1 mục tiêu quan trọng của GD, cũng như hưởng ứng cuộc vận động: “Trường học thân thiện, Học sinh tích cực”.

    2. Cơ sở thực tiễn:

    -Hiện nay HS thường có xu hướng xem nhẹ việc học những môn Xã hội nói chung, cũng như môn Ngữ Văn nói riêng. Mà thường hướng chú ý vào những môn mang tính thời cuộc như ngoại ngữ, tin học Do đó mà chất lượng học môn Ngữ Văn có chiều hướng giảm sút. Ngoài khó khăn chung đó, việc dạy học VBND ở THCS còn gặp phải một số trở ngại sau:

    ã Về phía HS:

    + HS khó nắm bắt nội dung các VBND, do không có thói quen nắm nội dung VB mà không được dựa trên cốt truyện, hệ thống nhân vật ( khó khăn này cũng xảy ra khi HS học VBNL)

    + HS mơ hồ, không xác định đúng được PTBĐ của các VBND (hạn chế về kiến thức LLVH) từ đó không định hướng, không nắm chắc được hướng tiếp cận VB. (Dù rằng SGK có định hướng rõ ở phần KQ cần đạt, ở các câu hỏi trong phần Đọc_Hiểu VB, nhưng do khả năng khái quát, tổng hợp vấn đề còn hạn chế; Do việc soạn, chuẩn bị bài ở nhà một phần chỉ mang tính đối phó).

    + Khả năng, kĩ năng liên hệ các vấn đề cập nhật được nói đến trong VB của HS còn hạn chế do: vốn kiến thức, vốn sống hạn chế; thiếu tinh thần tự giác, tích cực trong học tấp; kỹ năng trình bày ý kiến còn yếu đặc biệt là HS các vùng nông thôn, vùng ven thành phố, nơi có mặt bằng dân trí thấp, ít điều kiện tiếp cận các kênh thông tin VH-XH.

    ã Về phía GV: Từ thực tế giảng dạy và dự giờ các đồng nghiệp chúng tôi nhận thấy một số thực trạng sau:

    + Một là, GC thường quá chú trọng vào việc khai thác, bình giá phương diện hình thức ngôn từ của VB mà xem nhẹ, chưa chú trọng đến vấn đề XH đặt ra trong VB. Nghĩa là dạy VBND như dạy các VB văn học.

    + Hai là, ngược lại GV quá nhấn mạnh yêu cầu gắn kết vấn đề trong VB với đời sống, chú ý nhiều đến việc liên hệ thực tế mà xem nhẹ yếu tố nghệ thuật, dẫn đến việc khai thác VB không đầy đủ. Giờ dạy NV dễ biến thành một giờ dạy GDCD, 1 bài thuyết minh về các vấn đề môi trường, lịch sử

    + Ba là, GV ý thức được cả 2 vấn đề trên thì lại thường lúng túng khi đi tìm một định hướng tiếp cận VBND có hiệu quả (tiếp cận VB ở góc độ nào? Nội dung hay hình thức NT? ) việc lồng ghép các kênh hình, tiếng sao cho có hiệu quả mà vẫn đảm bảo thời lượng của một bài học Do đó việc liên hệ với thực tế, gắn kết kiến thức của bài học với các vấn đề cập nhật của đời sống XH còn mang tính máy móc; hoặc chưa tích hợp được với các môn học khác như GDCD, Lịch sử, Địa lí khi khai thác các vấn đề nhật dụng của VB.

    Qua tìm hiểu, chúng tôi xin đưa ra một số nguyên nhân lí giải cho thực trạng trên như sau:

    - GV thiếu một định hướng, một PPDH cụ thể khi tiếp cận dạy học VBND.

    - Việc vận dụng CNTT, phát huy ưu điểm của kênh hình, kênh tiếng trong việc liên hệ các vấn đề nhật dụng của VB với đời sống của GV còn hạn chế.

    - Chưa làm cho HS thấy được sự “gần gũi”, “bức thiết” của các vấn đề nhật dụng trong VB để các em hiểu rằng vấn đề được đề cập đến trong VB cũng là vấn đề của các em, liên quan đến cuộc sống của các em.

    Xuất phát từ những lí do trên, nhóm Văn tổ Văn_Nhạc_Họa trường chúng tôi đã mạnh dạn triển khai chuyên đề: “Một hướng tiếp cận giảng dạy VBND trong môn Ngữ Văn THCS”
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...