Chuyên Đề Mối quan hệ then chốt trong xã hội mang tính cộng đồng điển hình của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Mối quan hệ then chốt trong xã hội mang tính cộng đồng điển hình của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê

    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của luận vănDân téc ÊĐê là một trong 54 dân téc anh em trong cộng đồng người Việt Nam, sống chủ yếu ở năm tỉnh Tây Nguyên đông nhất là ở DakLak, DakNông và sau đó là Gia Lai, Kon Tum và Lâm Đồng. Dân số khoảng 250.000 người. Từ xưa đến nay đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê sống và điều chỉnh hành vi bằng luật tục của dân téc ḿnh Ưt quan tâm đến pháp luật của Nhà nước. Do vậy, có không Ưt những phong tục, tập quán lạc hậu đă cản trở sự phát triển lành mạnh của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê. Mặt khác, có những phong tục tập quán tiến bộ kết tinh từ bao đời nay của người ÊĐê lại chưa được pháp luật Nhà nước ta ghi nhận. V́ vậy, pháp luật đi vào cuộc sống của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê chưa thật sự tự nhiên và Ưt hiệu quả. Điều này tạo nên sự cách biệt, thậm chí là xung đột không đáng có giữa cộng đồng người ÊĐê với người Kinh trong thời gian vừa qua.
    Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và v́ dân của Nhà nước ta hiện nay, pháp luật đă được xác định là công cụ quan trọng nhất để nhà nước quản lư xă hội. V́ vậy, Nhà nước ta đă sử dụng nhiều phương pháp để đưa pháp luật đi vào cuộc sống của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê. Mặt khác, vai tṛ của luật tục ÊĐê cũng được nâng lên một bước.
    Tuy nhiên, về mặt lư luận, mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục nói chung và luật tục ÊĐê nói riêng chưa được giải quyết một cách triệt để, đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến trong thực tiễn xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật ở vùng đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê trong thời gian qua c̣n nhiều hạn chế và khiếm khuyết. Điều đó cho thấy cần thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê nhằm chỉ rơ những điểm tương đồng, điểm khác biệt đồng thời nêu những mặt tích cực cũng như những hạn chế của từng yếu tố trong quản lư xă hội, chỉ rơ sự tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau giữa chúng Trên cơ sở đó đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Từ đó có cơ sở đề ra những giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục ÊĐê sao cho pháp luật và luật tục ÊĐê được sử dụng một cách có hiệu quả nhất trong việc quản lư cộng đồng người dân téc thiểu số ÊĐê trong thời gian tới.
    Với lư do trên, tác giả chọn đề tài: "Mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê (qua thực tiễn xét xử của Ṭa án nhân dân tỉnh ĐakLak)" để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ luật học.
    2. T́nh h́nh nghiên cứuQua t́m hiểu nghiên cứu đề tài này, tác giả nhận thấy từ trước đến nay đă có nhiều công tŕnh nghiên cứu về luật tục của các dân téc Việt Nam nói chung và mét số công tŕnh nghiên cứu luật tục của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê, cô thể:
    - Luật tục ÊĐê, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1996. Công tŕnh này tác giả thống kê, sắp xếp các quy định của luật tục ÊĐê từ khi h́nh thành đến năm 1996, bằng hai thứ tiếng Việt - ÊĐê. Đồng thời, nêu những nét khái quát về sự h́nh thành và phát triển của luật tục ÊĐê, vị trí vai tṛ của luật tục ÊĐê trong đời sống của người ÊĐê từ trước tới nay.
    - Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2000. Trong công tŕnh này ngoài các phần viết về luật tục của các dân téc trên lănh thổ Việt Nam nói chung, có phần viết về lịch sử h́nh thành luật tục ÊĐê, vai tṛ của luật tục ÊĐê trong đời sống cộng đồng người ÊĐê và nêu một số thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp đất đai trong các thời kỳ lịch sử gắn liền với sự phát triển của luật tục ÊĐê.
    - Luật tục Tây Nguyên - giá trị văn hóa pháp lư, quản lư cộng đồng và mối quan hệ với pháp luật (Hoàng thị Kim Quế, Tạp chí Khoa học kinh tế luật, sè 1/2005).
    - Vai tṛ của người điều hành và thực thi luật tục; Giải quyết tranh chấp về dân sự trong luật tục ÊĐê; Hiệu lực của luật tục ÊĐê trong dời sống dân sự hiện đại (Y Nha, Nguyễn Léc - Ṭa án nhân dân tỉnh DakLak). Các công tŕnh này tác giả viết dưới dạng đề tài khoa học nghiên cứu các vấn đề liên quan đến vai tṛ của các già làng, trưởng buôn trong giải quyết tranh chấp dân sự phát sinh trong đời sống của cộng đồng người ÊĐê và nghiên cứu tính hiệu lực trên thực tế của luật tục ÊĐê.
    - Những quy định của luật tục ÊĐê về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (luật sư Phùng Trung Tập). Nêu tŕnh tự thủ tục giao kết hợp đồng dân sự, giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự và giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của luật tục ÊĐê
    Ngoài ra, c̣n có mét số công tŕnh nghiên cứu của một số tác giả về lĩnh vực hôn nhân gia đ́nh, lĩnh vực văn hóa dân gian, lĩnh vực môi trường v.v
    Như vậy trong thời gian qua, đă có rất nhiều công tŕnh nghiên cứu về luật tục ÊĐê, mỗi công tŕnh tiếp cận nghiên cứu luật tục ÊĐê ở các góc độ khác nhau, nhưng chưa có đề tài nào riêng biệt nói về mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. V́ vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục ÊĐê đáp ứng yêu cầu cấp bách cả lư luận và thực tiễn hiện nay ở Việt Nam nói chung và Tây Nguyên nói riêng.
    3. Phạm vi nghiên cứu* Về đối tượng nghiên cứu của luận văn:
    Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lư luận và thực tiễn trong mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê (thông qua hoạt động xét xử của Ṭa án nhân dân tỉnh DakLak) trên một số lĩnh vực nhất định.
    * Về thời gian:
    Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê dùa trên số liệu điều tra xă hội học tại các buôn làng đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê trên địa bàn tỉnh DakLak và thông qua hoạt động xét xử các loại án ở Ṭa án nhân dân DakLak.
    4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
    * Mục đích nghiên cứu:
    Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lư luận, phân tích và đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê, luận văn nêu ra một số giải pháp tăng cường giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê hiện nay.
    * Nhiệm vụ nghiên cứu:
    Nhiệm vụ của luận văn, phân tích cơ sở lư luận của mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê cụ thể là:
    - Xác định vị trí, vai tṛ của pháp luật và luật tục của đồng bào thiểu số ÊĐê trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay.
    - Phân tích những nét tương đồng, khác biệt và mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê.
    - Nêu bật được thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê hiện nay, có số liệu cụ thể chứng minh thực trạng lấy từ việc điều tra xă hội học ở các buôn làng dân téc thiểu số ÊĐê trên địa bàn tỉnh DakLak và thống kê được từ hoạt động xét xử các loại án ở Ṭa án nhân dân tỉnh DakLak.
    - Trên cơ sở phân tích lư luận và thực trạng về mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê hiện nay, rót ra mặt được và mặt chưa được, nguyên nhân của thành công và tồn tại. Từ đó đưa ra quan điểm và giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục của đồng bào dân téc thiểu số Ê Đê trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay.
    5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu dùa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền nói chung và chính sách dân téc nói riêng.
    Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dùa trên các phương pháp: phân tích - tổng hợp, lịch sử - cô thể; kết hợp các phương pháp điều tra xă hội học, phương pháp thống kê tổng hợp số liệu thông qua hoạt động xét xử các loại án ở Ṭa án nhân dân tỉnh DakLak.
    6. Ư nghĩa của luận văn
    Về lư luận:
    Luận văn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lư luận nhà nước và pháp luật v̉ mối quan hệ giữa pháp luật với các quy phạm xă hội khác.
    Về thực tiễn:
    Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong việc xây dựng pháp luật về chính sách dân téc của Nhà nước ta trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay.
    Luận văn nghiên cứu vấn đề về mối quan hệ tương tác giữa pháp luật và luật tục của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê trong khi ở địa bàn bốn tỉnh Tây Nguyên đang có nhiều cuộc bạo loạn của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê nổi lên đ̣i thành lập nhà nước Đề Ga độc lập. Tác giả mong muốn kết quả nghiên cứu của bản luận án này góp phần tích cực về việc hài ḥa mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê; làm cầu nối cho người dân téc thiểu số ÊĐê chung sống ḥa b́nh, tự nhiên với cộng đồng người Việt trên đất nước Việt Nam.
    7. KƠt cấu của luận văn
    Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
    Chương 1: Cơ sở lư luận về mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê.
    Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục.
    Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê ở tỉnh ĐăkLăk hiện nay.





    Chương 1
    CƠ SỞ LƯ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ
    GIỮA PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC ÊĐÊ

    1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VỊ TRÍ, VAI TR̉ CỦA PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC ÊĐÊ
    1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai tṛ của pháp luật
    Khái niệm: Pháp luật ra đời và tồn tại một cách khách quan để đáp ứng nhu cầu quản lư các mặt khác nhau của đời sống xă hội. Nó tồn tại song song với nhiều hiện tượng xă hội khác cùng thực hiện chức năng điều chỉnh xă hội. Quá tŕnh điều chỉnh các mặt khác nhau của đời sống xă hội, pháp luật thể hiện tính vượt trội so với các hiện tượng xă hội khác trong việc đáp ứng nhu cầu quản lư đời sống xă hội, đồng thời nó cũng bộc lé tính phức tạp thu hót sự quan tâm nghiên cứu của các nhà luật học trong nước và thế giới. Cho đến hiện nay, khái niệm pháp luật vẫn chưa được nhận thức một cách hoàn toàn thống nhất. Quan điểm truyền thống cho rằng: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ư chí Nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi Ưch của toàn xă hội, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xă hội với mục đƯch trật tự và ổn định xă hội v́ sự bền vững của xă hội [18, tr. 288]. Có thể nói, hầu hết các sách báo pháp lư, các luật gia, nhà khoa học đều thừa nhận cách hiểu này. Tuy vậy cũng có một số tác giả không hoàn toàn tán thành cách hiểu cụm từ: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự. Xuất phát từ quan điểm cho rằng quy tắc xử sự là những mô h́nh, khuôn mẫu cho hành vi con người, nó xác định rơ trong điều kiện, hoàn cảnh hay t́nh huống nào th́ chủ thể được làm ǵ, phải làm ǵ, làm như thế nào hay không được làm ǵ ., một số tác giả cho rằng, pháp luật được hiểu là hệ thống những quy tắc xử sự sẽ không bao quát hết những sự vật mà nó phản ánh, bởi lẽ trong pháp luật c̣n có rất nhiều quy định do nhà nước ban hành nhưng không phải là quy tắc xử sự. Tác giả cho rằng lập luận này có phần g̣ bó cứng nhắc. Thực tế, đúng là có rất nhiều quy định do Nhà nước ban hành chỉ là để qui định cách hiểu về một thuật ngữ, giải thích một khái niệm hay nêu lên một tư tưởng, một nguyên tắc nào đó, chúng không phải là những quy tắc xử sự bởi chúng không đưa ra một phương án xử sự cụ thể nào để chủ thể thực hiện theo. Tuy nhiên, chóng lại có ư nghĩa rất quan trọng trong việc giúp các chủ thể nhận thức và thực hiện một cách đúng đắn, đầy đủ những quy tắc của hành vi mà nhà nước đă đề ra. Mặt khác, pháp luật là hiện tượng xă hội nên không thể là một phép cộng giản đơn của những quy tắc xử sự do nhà nước ban hành mà nó c̣n bao gồm những tư tưởng, những nguyên tắc, những khái niệm, thuật ngữ nào đó tạo thành chất keo liên kết những quy tắc xử sù thành một thể thống nhất. Bởi vậy, theo tác giả, quan niệm pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự là hoàn toàn chính xác.
    Đặc điểm: Từ khái niệm trên ta có thể nhận dạng pháp luật một cách tương đối rơ ràng trong vô vàn hiện tượng xă hội khác nhau đang tồn tại trong xă hội:
    Trước hết, pháp luật mang tính quy phạm, phổ biến, bắt buộc chung. Quy phạm pháp luật là quy tắc hành vi có giá trị như những khuôn mẫu xử sự, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá hành vi của các cá nhân, các quá tŕnh xă hội. Luật tục ÊĐê nói riêng và các loại công cụ điều chỉnh quan hệ xă hội khác cũng có tính quy phạm nhưng nó không có tính phổ biến, bắt buộc chung. Nếu như các quy phạm luật tục ÊĐê chỉ có giá trị áp dụng bắt buộc đối với các thành viên trong cộng đồng người ÊĐê th́ pháp luật lại có tính phổ biến và bắt buộc chung đối với tất cả các thành viên trong xă hội. Các quy phạm pháp luật được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong không gian và thời gian. Nó chỉ phát sinh hiệu lực khi được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và hết hiệu lực áp dụng khi các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bá. Điều này thể hiện điểm khác biệt của pháp luật so với các hiện tượng xă hội khác đó là tính quyền lực nhà nước hay ư chí nhà nước.
    Đặc điểm thứ hai: Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về h́nh thức. Đối với các quy phạm luật tục ÊĐê và các quy phạm xă hội khác như quy phạm đạo đức, tập quán có thể lưu truyền bằng miệng trong dân gian, riêng pháp luật phải được thể hiện dưới dạng thành văn, ngôn ngữ trong các quy phạm pháp luật phải mang tính phổ thông và đễ hiểu. Mặt khác pháp luật có tính chính xác cao, giúp cho các chủ thể hiểu một cách rơ ràng những điều pháp luật cho phép, những điều pháp luật buộc phải làm và những điều ngăn cấm. Từ đó chủ thể lùa chọn cho ḿnh một cách xử sự đúng với yêu cầu của pháp luật.
    Đặc điểm thứ ba của pháp luật là tính được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước. Chỉ có nhà nước mới được ban hành pháp luật, và cũng chỉ có nhà nước mới có đủ quyền lực áp dụng các biện pháp cưỡng chế thực hiện pháp luật trong phạm vi toàn xă hội. Pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa khi không có một bộ máy bảo đảm thực hiện đó là nhà nước. Các quy phạm xă hội khác cũng được bảo đảm thực hiện bằng nhiều h́nh thức như lương tâm, niềm tin tín ngưỡng, áp lực dư luận cộng đồng nhưng không có tính bảo đảm thực hiện bằng nhà nước. Ngoài ba đặc điểm này pháp luật c̣n có một số đặc điểm khác như tính hệ thống, tính ổn định tương đối V́ vậy, khi nghiên cứu các đặc điểm của pháp luật cần phải có cách nh́n nhận tổng quát toàn diện để phân biệt các quy phạm pháp luật với các quy phạm xă hội khác.
    Vị trí vai tṛ của pháp luật: Pháp luật ra đời đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các mối quan hệ xă hội trong điều kiên các giai cấp đối kháng nhau về quyền lợi. Có thể nói pháp luật xuất hiện như một tất yếu khách quan, là công cụ bảo vệ giai cấp thống trị, củng cố, xác lập trật tự xă hội. Không có pháp luật th́ không có trật tự xă hội và không một cộng đồng, một xă hội nào có thể tồn tại được trong điều kiện xă hội có giai cấp. Điều này cho thấy vị trí vai tṛ to lớn của nó trong đời sống xă hội.
    1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai tṛ, nội dung của luật tục ÊĐê
    Khái niệm: Luật tục thuộc phạm trù tập quán. Theo các quan điểm phổ biến hiện nay, luật tục được hiểu là những phong tục tập quán tồn tại dưới dạng truyền khẩu và thành văn, là hệ thống những quy tắc xử sự điều chỉnh mọi mặt của đời sống cộng đồng. Điểm khác biệt của luật tục so với những phong tục tập quán b́nh thường đó là luật tục không phải tổng hợp mọi phong tục tập quán mà chỉ bao gồm những phong tục, tập quán, quy lệ tác động đến những hành vi cá nhân trong cộng đồng hay giữa các cộng đồng với nhau như là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc, gắn với những h́nh thức xử phạt và khen thưởng.
    Luật tục và tập quán là những khuôn mẫu ứng xử được đặt ra trong một cộng đồng. Nó có những điểm giống nhau và cũng có những điểm khác nhau đó là: Luật tục và tập quán đều được h́nh thành từ những thăi quen, khuôn mẫu ứng xử được mọi người tuân theo. Tập quán có biên độ rộng c̣n luật tục thường có biên độ hẹp hơn, quy định rơ những điều cụ thể. Tập quán được mọi người chấp nhận tự giác, c̣n luật tục có tính cưỡng chế, gây áp lực bắt buộc mọi cá nhân trong cộng đồng phải tuân theo. Luật tục bắt nguồn từ tập quán, trong quá tŕnh áp dụng tập quán từ thế hệ này sang thế hệ khác, sự tuyển chọn tự nhiên của con người dẫn đến một số tập quán đáp ứng được những nhu cầu cần thiết cho việc bảo vệ lợi Ưch của một cộng đồng người đă trở thành luật tục.
    Nói theo ngôn ngữ pháp lư hiện đại th́ luật tục vừa chứa đựng các quy định về luật nội dung và luật h́nh thức, nó chính là những hành động, những khuôn mẫu ứng xử ừ tuân theo chuẩn mực luân lư, chính trị và thẩm mỹ của mét cộng đồng. Đặc biệt, luật tục có tính cưỡng chế cao, nă quy định những điều được phép làm và những điều ngăn cấm.
    Luật tục ÊĐê không nằm ngoài phạm trù tập quán. Nó là những khuôn mẫu ứng xử được h́nh thành, lưu truyền trong cộng đồng người dân téc thiểu số ÊĐê dưới dạng truyền miệng, được sàng lọc, tuyển chọn từ hệ thống tập quán của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê qua nhiều thế hệ. Cho đến giai đoạn hiện nay không ai khẳng định được một cách chính xác luật tục ÊĐê ra đời từ thời điểm cụ thể nào. Vào những năm đầu thập niên ba mươi của thế kỷ XX viên Công sứ Pháp ở tỉnh DakLak: L.Sabatier đă tổ chức sưu tầm luật tục của người ÊĐê bằng cách ghi âm tiếng ÊĐê và dịch ra bằng chữ ÊĐê, đó là loại chữ được các cố đạo người Pháp xây dựng và đưa vào bộ vần chữ la tinh. Sưu tập này được gọi là Tập quán pháp ca[19, tr. 22] và công bố công tŕnh này vào năm 1926. Đến năm 1940 D.Antomarchi đă dịch và công bố luật tục này trên tạp chí Trường Viễn Đông Bác Cổ (B.E.F.E.O).
    Sau năm 1975 nhà Tây Nguyên học Nguyễn Hữu Thấu đă dịch bản luật tục này ra tiếng việt qua bản in tiếng pháp. Trên cơ sở văn bản luật tục ÊĐê của L. Sabatier, Nguyễn Hữu Thấu tham khảo thêm hai bộ luật tục mới sưu tầm được đó là bản luật tục ÊĐê của Chu Thái Sơn, Bế Viết Đăng, Nguyễn Nam Tiến sưu tầm và bản luật tục chữ ÊĐê do Chu Thái Sơn sưu tầm. Đến năm 1996 luật tục ÊĐê được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia cho xuất bản bằng hai thứ tiếng Việt - ÊĐê [19, tr. 23]. Như vậy xét về mặt lịch sử, luật tục ÊĐê được h́nh thành như là một đạo luật dân gian có vai tṛ điều hành, ổn định cuộc sống của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó trở thành một thứ văn hóa truyền thống của một téc người.
    Về bản chất luật tục ÊĐê được quan niệm như là: một loại luật được sử dụng, lưu truyền trong dân gian, bắt nguồn từ phong tục, tập quán và gắn liền với phong tục tập quán, khu biệt với luật nhà nước Nói tóm lại, có thể khái quát những nét nhận diện cơ bản về luật tục ÊĐê đó là:
    - Luật tục ÊĐê là những quy tắc xử sự chung của người ÊĐê, được người ÊĐê sáng tạo nên và lưu truyền trong cộng đồng người ÊĐê qua nhiều thế hệ, được mọi thành viên trong cộng đồng mặc nhiên thừa nhận và thi hành.
    - Luật tục ÊĐê có phạm vi điều chỉnh rộng. Nó chứa đựng cả luật nội dung và luật tố tụng. Có thể coi luật tục ÊĐê là tiêu chí cho xử sự của các thành viên trong cộng đồng người ÊĐê trên tất cả các lĩnh vực đạo đức, luân lư và t́nh cảm
    - Luật tục ÊĐê xuất phát từ phong tục tập quán và trở lại điều chỉnh các quan hệ nảy sinh trong cộng đồng người ÊĐê, bảo vệ các phong tục tập quán, có quan hệ chặt chẽ với tín ngưỡng và tôn giáo.
    Từ sự khái quát này, tác giả rót ra khái niệm luật tục ÊĐê như sau:
    Luật tục ÊĐê là những quy tắc xử sự chứa đựng những tiêu chí về đạo đức, luân lư, các phong tục tập quán, lễ nghi tôn giáo; do nhiều thế hệ trong cộng đồng người ÊĐê có quan hệ huyết thống xây dựng nên và lưu truyền cho tới ngày nay, để điều chỉnh các quan hệ xă hội, nhằm điều ḥa và bảo vệ xă hội truyền thống trong cộng đồng người ÊĐê; được mọi thành viên trong cộng đồng người ÊĐê chấp nhận, thực hiện một cách tự giác.
    Đặc điểm: Luật tục của đồng bào dân téc thiểu số Ê Đê bắt nguồn từ đời sống xă hội cộng đồng của người ÊĐê. Xă hội trong luật tục ÊĐê là xă hội của cộng đồng người dân téc thiểu sè ÊĐê sống chủ yếu ở bốn tỉnh DakLak, Gia Lai, Dak Nông, Lâm Đồng thuộc vùng Tây Nguyên Nam Trung Bé. Luật tục ÊĐê chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện kinh tế, văn hóa, xă hội của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê. Nền kinh tế tự cung tự cấp của đồng bào dân téc ÊĐê trên cao nguyên Nam Trung Bộ được phản ánh rơ nét trong luật tục ÊĐê. Trong 11 chương, 236 diều của luật tục ÊĐê có nhiều điều quy định về các hành vi trao đổi vật ngang giá mà không có điều nào quy định các vấn đề liên quan đến các hành vi mang tính chất thương mại hiện đại.
    Do được h́nh thành một cách tự phát theo nhu cầu điều chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng người dân téc thiểu số ÊĐê - mét cộng đồng người sống gắn liền với nền sản xuất nhỏ mang tính tự cung tự cấp, phụ thuộc vào thiên nhiên, tin tưởng vào các lực lượng siêu nhiên nên luật tục ÊĐê chứa đựng nhiều quy định bảo vệ lễ nghi tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê, được lưu truyền dưới dạng truyền miệng, phát triển qua nhiều thế hệ và được coi là mét công tŕnh lập tục tập thể [23]. V́ vậy, luật tục ÊĐê đi vào ư thức của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê một cách tự nhiên và được cộng đồng người ÊĐê chấp nhận một cách tự giác. Ngôn ngữ trong luật tục ÊĐê méc mạc, mang đậm chất thi ca, gần gũi với thiên nhiên làm cho người đọc dễ hiểu và dễ áp dụng
    Cuộc sống của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê có tính gắn kết cộng đồng cao. Điều hành công việc chung của cộng đồng người ÊĐê ở các buôn làng là các Trưởng buôn. Đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê ví Trưởng buôn như "Cây sung đầu suối, Cây đa đầu làng" (Luật tục ÊĐê, Điều 26). Người Trưởng buôn được dân làng bầu ra, có quyền lực tối cao trong làng và phải chịu ràng buộc chặt chẽ của luật tục khi thực hiện hành vi quản lư, điều hành buôn làng. Luật tục ÊĐê dành hẳn chương II và III quy định về việc bầu Trưởng buôn, quyền hạn của Trưởng buôn và mô tả các hành vi "có tội" của Trưởng buôn kèm theo h́nh phạt khá nặng nề và chi tiết đối với Trưởng buôn trong khi thi hành nhiệm vụ quản lư, điều hành và xử lư các công việc của buôn làng giao.
    Luật tục ÊĐê là bức tranh phản ánh sâu sắc toàn cảnh lịch sử xă hội mẫu hệ kéo dài từ hàng trăm năm và vẫn tồn tại khá điển h́nh trong xă hội hiện đại. Trong luật tục ÊĐê các chương bảo vệ quyền thừa kế theo ḍng họ mẹ, các chương hôn nhân gia đ́nh chiếm phần lớn nội dung của luật tục. Trong sự phân bố 236 điều của luật tục ÊĐê, có 48 điều quy định vấn đề hôn nhân gia đ́nh. Như vậy cho thấy vấn đề hôn nhân trong luật tục ÊĐê được chú trọng hàng đầu, đó là quan hệ hôn nhân theo truyền thống mẫu hệ: người phụ nữ chủ động trao ṿng tay cầu hôn người đàn ông và cưới người chồng về cư trú tại nhà ḿnh, con sinh ra mang họ mẹ
    Luật tục ÊĐê phát triển mạnh ở những cộng đồng nhỏ người ÊĐê có tính huyết thống cao. Nă bao gồm những quy định về đạo đức và trí thức dân gian bản địa về con người, tự nhiên và xă hội để h́nh thành nên những quy tắc ứng xử của cá nhân và cộng đồng người ÊĐê. Do được h́nh thành từ cuộc sống gắn với tự nhiên của cá nhân và cộng đồng người ÊĐê, nên luật tục ÊĐê có những đặc điểm cơ bản nổi trội vừa gần gũi với pháp luật, vừa khác biệt với pháp luật.
    Luật tục ÊĐê vừa chứa đựng các quy định về luật nội dung và luật tố tụng, tính cưỡng chế cao và có hiệu lực trên thực tế. Mặt khác, luật tục ÊĐê có phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát toàn bé các lĩnh vực quan hệ xă hội. H́nh phạt trong luật tục ÊĐê có điểm đặc trưng đó là phạt đền bằng hiện vật.
    Vị trí vai tṛ của luật tục ÊĐê trong đời sống của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê: Luật tục ÊĐê trước hết là một kho tàng trí thức dân gian được tích lũy từ thực tế đời sống của nhiều thế hệ đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê. Nó đề cập đến hầu hết các lĩnh vực khác nhau trong đời sống của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê, từ sản xuất, tổ chức xă hội và quan hệ cộng đồng, quan hệ nam nữ, lễ nghi tôn giáo, phong tục ở từng lĩnh vực, các tri thức dân gian này đều được định h́nh và trở thành các nguyên tắc nhằm giáo dục răn đe mọi người, ngăn chặn những hành vi làm thương tổn lợi Ưch của cá nhân và của cộng đồng, phù hợp với nhận thức và tŕnh độ xă hội của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê.
    Trong xă hội cổ truyền cũng như trong xă hội hiện đại, luật tục ÊĐê vẫn phát huy vai tṛ điều chỉnh mọi mối quan hệ xă hội ở các buôn làng đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê. Đối với đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê hiện nay luật tục vẫn là chuẩn mực trong mọi hành vi ứng xử hàng ngày. Trong giao tiếp với cá nhân, cộng đồng, khi gặp phải t́nh huống phải lùa chọn, đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê thường nghĩ ngay đến những câu luật tục mang đậm chất thơ để định hướng cho những hành vi ứng xử khỏi đi ra ngoài quy định của luật tục. C̣n đối với những người được giao trọng trách xử kiện (Khoa Pin Ea), họ gần như thuộc ḷng các vần điệu của luật tục để dẫn ra từng câu, từng đoạn thích hợp nhằm phân tích phải trái và luận tội, buộc tội một cách chính xác bảo đảm quyền lợi cho mỗi cá nhân cũng như của cộng đồng. Điều đó thể hiện sức sống mănh liệt của luật tục ÊĐê và chứng minh cho sự hợp lư, sự cần thiết của nó trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xă hội ở các buôn làng của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê trong giai đoạn hiện nay.
    Nghiên cứu luật tục ÊĐê ta có thể thấy đây là một h́nh thái pháp luật sơ khai đă được đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê sáng tạo nên và hoàn thiện nó qua nhiều thế hệ. Nội dung của luật tục ÊĐê xác lập vị trí của mỗi cá nhân trong cộng đồng, h́nh thành nên mối quan hệ giữa từng thành viên trong cộng đồng với nhau, giữa cá nhân và cộng đồng, góp phần quản lư cộng đồng một cách chặt chẽ, hiệu quả trong quá khứ và vẫn tiếp tục giữ vai tṛ đáng kể trong cuộc sống hiện đại nhất là trong giai đoạn xây dùng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
    Xă hội hiện đại với xu thế hội nhập toàn cầu đang diễn ra ở khắp mọi nơi trên thế giới nói chung và ở Việt nam nói riêng. Đây là xu hướng phù hợp với sự phát triển của quy luật tự nhiên. Như vậy, đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê không phải là những thực thể xă hội biệt lập và không thể măi măi thu hẹp hành vi của ḿnh trong phạm vi luật tục của buôn làng. Trong xă hội mới, đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê phải cùng 54 dân téc anh em trong cả nước vận hành trong một hành lang pháp lư chung đó là pháp luật của nhà nước. Tuy nhiên, luật tục ÊĐê với những quy định mang tính chất tiến bộ sẽ làm nhiệm vụ hậu thuẫn đắc lực cho pháp luật, làm mềm các quy định vốn cứng nhắc của pháp luật, bổ sung, bù đắp những quy định có tính khái quát cao của pháp luật trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xă hội ở các buôn làng đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê và đặc biệt luật tục ÊĐê chuyển đổi các ngôn ngữ hiện đại của pháp luật thành các ngôn ngữ dân gian, gần gũi với thiên nhiên, đưa pháp luật đi vào đời sống của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê một cách tự nhiên và hiệu quả. Mặt khác, sù tiếp cận pháp luật tuy mới chỉ là Ưt ỏi của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê trong thời gian qua đă làm cho luật tục ÊĐê có những thay đổi về chất. Một số hủ tục lạc hậu như đánh đuổi người bị coi là ma lai ra khỏi làng, con đă thành niên vi phạm luật tục buộc cha mẹ phải bồi thường nay đă được loại bỏ. Trong xă hội mới, sự tiếp cận pháp luật của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê trên diện rộng sẽ làm cho luật tục ÊĐê ngày càng được sàng lọc và hoàn thiện trở thành những quy tắc ứng xử tiến bộ, hướng hành vi của đồng bào dân téc thiểu số ÊĐê vừa đi vào quỹ đạo chung của pháp luật nhà nước vừa không làm trái những tập quán lâu đời của buôn làng.
    Nội dung của luật tục ÊĐê: Theo cuốn Luật tục ÊĐê (Tập quán pháp) Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 1996 th́ Iuật tục ÊĐê được tập hợp thành 11 chương và 236 điều:
    Chương I: Các quy định mở đầu, gồm có 23 điều (từ Điều 1 đến Điều 23)
    Trong chương I luật tục ÊĐê đề cập tới các yếu tố cấu thành tội phạm. Mặc dù việc xác định một người phạm tội trong luật tục ÊĐê c̣n ở mức độ sơ khai nhưng có những điểm khá gần gũi với pháp luật như việc mô tả hành vi lừa đảo: Hắn là kẻ biến mủ cây đa thành mủ cây sung, biến voi cái thành voi đực, biến người này thành người kia như vậy có việc phải đưa hắn ra xét xử (Điều 20 luật tục ÊĐê). Mặt khác, trong chương này luật tục c̣n quy định việc xem xét chứng cứ cụ thể là những bằng chứng, tang chứng trong khi xét xử, đồng thời xác định về các h́nh thức ṭng phạm như chứa chấp, bao che người có tội Điển h́nh là quy định về tang chứng: Phải tóm được chân hắn, phải nh́n tận mặt hắn, phải tóm cổ được hắn bằng giữ được cái gùi hắn đeo, bằng nắm được cánh tay của hắn, phải nhận được mặt ṃi hắn thật chắc chắn (Điều 4 luật tục ÊĐê). Nghiên cứu các quy định này ta thấy luật tục ÊĐê bước đầu vươn lên đến tŕnh độ của một tục lệ, một tập quán pháp trong xă hội tiền giai cấp.
     
Đang tải...