Tiểu Luận Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ theo pháp luật hiện hành- Thực trạng và giải pháp

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    A. PHẦN MỞ ĐẦU
    Năm 1945, cùng với cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong toàn quốc, chúng ta đã đập tan bộ máy thực dân phong kiến, xây dựng chính quyền nhân dân. Từ đó đến nay, bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được củng cố và hoàn thiện. Sự hoàn thiện đó cũng là nhờ mối quan hệ giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước ngày càng chặt chẽ hơn, phối hợp hoạt động có hiệu quả hơn, nhất là mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ. Qua những quy định của Hiến pháp chúng ta có thể thấy mối liên hệ giữa Quốc hội và Chính phủ là đặc biệt quan trọng và góp phần to lớn vào việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Vì vậy, trong bài tập nhóm này, nhóm A3 lớp 3723 đã chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ theo pháp luật hiện hành- Thực trạng và giải pháp”. Trong phạm vi bài viết sẽ làm rõ phần nào mối liên hệ giữa hai cơ quan đại diện cho hai lĩnh vực quan trọng là lập pháp và hành pháp được quy định theo pháp luật hiện hành, thực trạng hoạt động và kiến nghị một vài giải pháp để phát huy, hoàn thiện mối quan hệ đó. Do hạn chế về thời gian và sự am hiểu nên bài viết chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót, chúng em mong nhận được những ý kiến phê bình, đánh giá để bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

    B. PHẦN NỘI DUNG
    I. Khái quát về Quốc hội và Chính phủ
    1. Quốc hội
    “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 83, Hiến pháp 1992 sửa đổi). Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng nhất của đất nước về đối nội, đối ngoại và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
    Quốc hội nước ta đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Các đại biểu Quốc hội là những công nhân, nông dân trí thức và những người lao động ưu tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước được nhân dân tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nắm vững nguyện vọng, tâm tư của quần chúng Nhiệm kì Quốc hội là 5 năm.
    2. Chính phủ
    “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 109, Hiến pháp 1992 sửa đổi).
    Chính phủ có nhiệm vụ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; Chính phủ bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo đảm việc ổn định và không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
    Thủ tướng chính phủ do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội theo đề cử của Chủ tịch nước, các thành viên khác do Thủ tướng Chính phủ giới thiệu, Quốc hội phê chuẩn.
    Thành viên Chính phủ gồm Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
    II. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ
    1. Quốc hội thành lập ra Chính phủ
    Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và quy trình thành lập của Chính phủ có sự chỉ đạo, phối hợp một cách nhịp nhàng giữa Quốc hội và Chính phủ. Điều 3 Luật tổ chức Chính phủ 2001 quy định: “Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc từ chức đối với Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”.
    Quốc hội có quyền quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và cơ quan ngang bộ của Chính phủ, đồng thời quyết định Chính phủ có bao nhiêu Bộ, cơ quan ngang Bộ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ cho hợp với thực tế đời sống và hoạt động có hiệu quả nhất. Theo Hiến pháp hiện hành thì Chính phủ có 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ.
    Ngoài ra còn có quy định về tiêu chuẩn thành viên Chính phủ như sau: thành viên Chính phủ không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội (trừ Thủ tướng), thành viên Chính phủ không đồng thời là thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Quy định này nhằm thể hiện quan điểm phân công phân nhiệm giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, đồng thời đảm bảo hiệu quả hoạt động của các thành viên Chính phủ và đại biểu Quốc hội.
    Nhiệm kỳ của Chính phủ tính theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Theo luật hiện hành thì nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội cũng như Chính phủ là 5 năm. Kinh phí hoạt động của Chính phủ do Quốc hội quy định từ ngân sách Nhà nước.
    Hiến pháp 1992 có quy định khá cụ thể về việc thành lập Chính phủ, đây là quy định kế thừa có chọn lọc quy định của các Hiến pháp Việt Nam trước đó. Đồng thời cũng thay đổi những quy định không phù hợp với thực tế để Chính phủ hoạt động tốt hơn, đáp ứng yêu cầu và tình hình mới của đất nước nhằm thực hiện đúng quan điểm về tổ chức bộ máy nhà nước tập trung vào hệ thống cơ quan dân cử. Điều này không đồng nghĩa với việc hạ thấp vai trò, vị trí của Chính phủ, Hiến pháp vẫn quy định vị trí “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất” trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam.
    2. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội
    Với thẩm quyền của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như: kế hoạch, ngân sách, các loại thuế, ban hành Hiến pháp và luật . Để triển khai các nghị quyết đó, Chính phủ phải tổ chức thực hiện có hiệu quả. Trên cơ sở cụ thể hóa bằng các văn bản dưới luật, Chính phủ đề ra biện pháp thích hợp, phân công, chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các văn bản đó trên thực tế.
    Nhưng nếu như trong Hiến pháp 1980 chỉ quy định Chính phủ “là cơ quan chấp hành và cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” (tức Quốc hội) thì Hiến pháp 1992 xác định lại vị trí của Chính phủ, “là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 109). Quy định này nhằm đề cao vị trí của Chính phủ trong bộ máy nhà nước, tạo thế chủ động cho Chính phủ trong hoạt động quản lý nhà nước. Việc quản lý chặt chẽ hệ thống cơ quan hành chính của cả bộ máy nhà nước bao gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan hành chính trực thuộc chính phủ, UBND các cấp, cơ quan chuyên môn của UBND và cơ quan đại diện của các bộ tại địa phương giúp cho việc thực thi Hiến pháp, pháp luật của Quốc hội đi vào cuộc sống thực tế của người dân một cách có hiệu quả và nhanh chóng hơn.
    Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội về những nhiệm vụ của mình. Hiến pháp 1992 quy định rõ việc Chính phủ chịu sự giám sát của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước nhưng chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội (chỉ Quốc hội mới có quyền xem xét trách nhiệm của Chính phủ, miễn nhiệm các thành viên Chính phủ).
    3. Nguyên tắc giám sát Chính phủ của Quốc hội
    “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”, đặc biệt là các cơ quan Nhà nước ở trung ương như Chính phủ. Quốc hội giám sát Chính phủ bằng các hình thức sau:
    Một là, Quốc hội xét báo cáo công tác của Chính phủ. Tại 2 kỳ họp trong năm, Quốc hội sẽ xem xét các báo cáo của Chính phủ về kinh tế- xã hội và ngân sách nhà nước; tình hình thực hiện các dự án, công trình quan trọng quốc gia; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; công tác thi hành án, phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm . Trong kỳ họp thứ tư khóa XIII vừa qua, Quốc hội đã dành thời gian thỏa đáng để thảo luận, xem xét các báo cáo một cách nghiêm túc, dân chủ, thẳng thắn, đúng quy định. Các báo cáo đã được Chính phủ, các cơ quan hữu quan chuẩn bị tương đối đầy đủ, cụ thể và được các cơ quan của Quốc hội tiến hành thẩm tra kỹ lưỡng, đúng quy trình; được các vị đại biểu Quốc hội xem xét, thảo luận kỹ, nêu rõ chính kiến về những ưu điểm, hạn chế, đưa ra những nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và kiến nghị xác đáng. Tuy vậy, nhìn chung thì các bản báo cáo qua hàng năm vẫn còn nặng nề, chung chung, chưa đánh giá hết được tình hình tham nhũng, tham ô, lãng phí, tình trạng đơn thư khiếu nại tố cáo ngày càng tăng, đặc biệt có dấu hiệu của biểu tình.
    Hai là, Quốc hội xem xét việc trả lời chất vấn của các thành viên Chính phủ. Chất vấn là quyền của đại biểu Quốc hội đòi hỏi một cơ quan nhà nước, một nhà chức trách nào đó phải trả lời, phải báo cáo với cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất về vấn đề có liên quan đến hoạt động của cơ quan hoặc người bị chất vấn. Chất vấn là câu hỏi, nhưng được đặt ra để quy kết trách nhiệm. Gần đây, vấn đề chất vấn của đại biểu Quốc hội cũng như việc trả lời của các Bộ trưởng có nhiều tiến bộ rõ rệt. Tại kì họp lần này, không khí chất vấn thẳng thắn, dân chủ, với tinh thần xây dựng cao, tăng cường tính đối thoại, nghiêm túc nhìn nhận trách nhiệm cá nhân, đưa ra những giải pháp cụ thể, thiết thực để khắc phục những hạn chế, yếu kém, có cam kết thời gian hoàn thành để Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội theo dõi, giám sát việc thực hiện; công tác điều hành phiên chất vấn linh hoạt, dứt khoát, tập trung vào các nội dung trọng tâm . đã góp phần nâng cao tính hiệu quả, hiệu lực của hoạt động chất vấn. Các phiên chất vấn được truyền hình trực tiếp trên cả 63 tỉnh thành cả nước, đã đề cập đến những vấn đề bức xúc hiện nay như: giải quyết hàng tồn kho, đảm bảo an toàn thủy điện, “phá băng” bất động sản, đảm bảo chất lượng công trình, giải quyết “nợ xấu”, quản lí giá thuốc . nên được cử tri cả nước rất quan tâm. Tuy nhiên, hoạt động chất vấn cũng còn một số hạn chế như câu trả lời của một số Bộ trưởng còn chung chung, chưa đúng trọng tâm; một số đại biểu Quốc hội không có kĩ năng chất vấn, lúng túng trong phương pháp tranh luận, đối thoại.
    Ba là, Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ. Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Tuy nhiên, một thực tế là các văn bản của Thủ tướng và các thành viên Chính phủ bị Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội phát hiện sai trái và bãi bỏ không nhiều. Giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hữu quan còn nhiều hạn chế, vẫn còn là khâu yếu, chưa được quan tâm thỏa đáng, kết quả giám sát chưa rõ nét.
    Bốn là, Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ trong Chính phủ. Thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Thành viên của Chính phủ có thể bị Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm và cách chức theo quy định của pháp luật. Trước khi quyết định bãi miễn các chức danh thì Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức đanh dó. Trong buổi làm việc sáng 21/11 vừa qua, với 474/478 tổng số đại biểu có mặt bỏ phiếu tán thành (95,18%), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng Nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Căn cứ đánh giá mức độ tín nhiệm gồm: kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn; phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống.
    Theo nghị quyết, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên của Chính phủ sẽ là các đối tượng mà Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm. Đáng chú ý, người có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội đánh giá “tín nhiệm thấp” thì có thể xin từ chức. Người có trên 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội đánh giá “tín nhiệm thấp” hoặc 2 năm liên tiếp có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội đánh giá “tín nhiệm thấp” thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm. Người có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội bỏ phiếu “không tín nhiệm” thì cơ quan hoặc người có thẩm quyền đã giới thiệu người đó để Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn có trách nhiệm trình Quốc hội xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức đối với người không được Quốc hội tín nhiệm. Quy định này làm cho các thành viên Chính phủ nâng cao trách nhiệm, làm việc theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đảm bảo cho hiệu quả của cơ quan hành pháp, chống lại những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, hách dịch, cửa quyền và mở đường cho một “văn hóa từ chức”.
    4. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong quy trình lập pháp.
    Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất. Hoạt động của Chính phủ được thực hiện trên cơ sở những VBQPPL do Quốc hội ban hành. Chính phủ là bằng hoạt động cụ thể của mình góp phần đảm bảo tính thống nhất, liên tục của hệ thống hành chính và sự phối hợp chặt chẽ giữa hai cơ quan lập pháp và hành pháp để tạo thành cơ chế tổng thể thực thi quyền lực và hiệu quả quản lí chung của Nhà nước.
    Quốc hội không trực tiếp soạn thảo nội dung của tất cả các văn bản luật, pháp lệnh mà đa số các văn bản luật pháp lệnh do Quốc hội và ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua đều do Chính phủ soạn thảo. Như vậy, quyền lập pháp của Quốc hội được thực hiện trên cơ sở quyền trình dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ.
    Trong điều kiện chính trị nước ta hiện nay không có sự đối lập về chính trị nên mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ nói chung và hoạt động lập pháp nói riêng không có sự đối lập trong mục đích xây dựng và ban hành VBQPPL. Luật do Quốc hội ban hành là thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước. Chính phủ có vai trò đảm bảo, tôn trọng, chấp hành Hiến pháp và pháp luật do Quốc hội ban hành vì thế Hiến pháp, luật của Quốc hội ban hành chỉ có thể trở thành hiện thực trong đời sống Nhà nước và đời sống xã hội khi được Chính phủ tổ chức chỉ đạo trong quá trình thực hiện chức năng quản lý Nhà nước bằng hoạt động lập quy (cụ thể hóa đúng đắn và kịp thời luật và nghị quyết của Quốc hội) đồng thời tuyên truyền, phổ biến chúng. Để làm tốt chức năng lập pháp của mình Quốc hội cần có một sự phối hợp nhịp nhàng với Chính phủ.
    Hiện nay, quy trình lập pháp được tiến hành khá chặt chẽ, hoàn chỉnh, từ giai đoạn soạn thảo dự thảo luật (Chính phủ giao cho một bộ hoặc một cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo) đến giai đoạn thẩm tra dự án luật, pháp lệnh (Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội thẩm tra về sự cần thiết ban hành luật, pháp lệnh; sự phù hợp của nội dung dự án với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp của dự án, tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật; việc tuân thủ thủ tục soạn thảo; tính khả thi của dự án) và quá trình chỉnh lí dự án luật, pháp lệnh (khi dự án đã được hoàn thiện dần và được các chủ thể có liên quan đánh giá là có chất lượng cao, đã thể hiện đầy đủ các nội dung cần thiết thì cơ quan soạn thảo sẽ trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước UBTVQH. Các cơ quan này sẽ thảo luận thông qua dự án).
    Mặc dù quy trình lập pháp khá hoàn chỉnh nhưng vẫn có một số tồn tại như: quy trình làm luật chậm; luật vừa ra đời đã không phù hợp với thực tế (chỉ là “chạy theo xã hội”, vì vậy chỉ mới ban hành nhưng luật đã muốn sửa đổi cho hợp với thực tế mới; một vài trường hợp còn không phù hợp với hệ thống văn bản pháp luật đã có gây ra nhiều tranh cãi, đôi khi ngay cả nhân viên trong các cơ quan tư pháp cũng không biết thực hiện theo luật nào, quy định nào .
    III. Giải pháp tăng cường, hoàn thiện mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ
    1. Trong tổ chức và hoạt động
    Hiện nay, trong cơ cấu của Quốc hội, có 25% là đại biểu chuyên trách, còn lại là đại biểu kiêm nhiệm. Điều này tất yếu dẫn đến việc hoạt động kém hiệu quả của bộ máy nhà nước, khi mà khối lượng công việc quá nhiều, quỹ thời gian hạn hẹp, nhiệm vụ quyền hạn chồng chéo . đặc biệt là những đại biểu Quốc hội đồng thời là thành viên Chính phủ. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này, tăng cường hiệu quả hoạt động của cả Quốc hội và Chính phủ, thì cần tăng số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, giảm số lượng đại biểu kiêm nhiệm, nhất là các đại biểu Quốc hội giữ chức Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong Chính phủ.
    2. Trong hoạt động giám sát
    Tiến hành nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để thực hiện tốt công tác này.
    Xây dựng chương trình giám sát đối với hoạt động của Chính phủ hàng năm và từng quý, tháng. Chương trình giám sát phải sát thực tế đất nước, vào từng vấn đề bức xúc trong từng giai đoạn, từng lĩnh vực.
    Các vị đại biểu Quốc hội tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm, tích cực nghiên cứu các cơ chế, chính sách, nâng cao kỹ năng giám sát, tham gia và đổi mới cách thức tiến hành giám sát để hoạt động giám sát đi vào chiều sâu, thực chất hơn.
    Tiếp tục phát huy vai trò quan trọng, tích cực của các phương tiện thông tin đại chúng, công tác cung cấp thông tin, sự tham gia của cơ quan kiểm toán, các tổ chức chính trị, chính trị- xã hội, xã hội- nghề nghiệp, các đối tượng chịu tác động của chính sách, pháp luật đối với hoạt động giám sát của Quốc hội.
    Kiện toàn bộ máy tham mưu, giúp việc và các điều kiện đảm bảo, nâng cao tính chuyên nghiệp trong tham mưu, phục vụ để hoạt động giám sát được tiến hành một cách thuận lợi, khoa học, đạt chất lượng, hiệu quả cao.
    3. Trong quy trình lập pháp
    Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Thế nhưng, một thực tế là 90% dự thảo luật là do Chính phủ đưa ra. Điều này dường như đã hạn chế quyền lập pháp của Quốc hội, làm cho vai trò của Chính phủ lớn hơn, Quốc hội chỉ là cơ quan thông qua luật chứ không phải cơ quan làm việc như chức năng vốn có. Vì vậy, thiết nghĩ, con số này cần được được giảm xuống 70-80%, thay vào đó, các đại biểu Quốc hội cần tích cực và phát huy vai trò của mình với quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật, đưa ra sáng kiến lập pháp.
    Cùng với đó, cần đổi mới quy trình lập, thẩm tra chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; tăng cường tính chủ động của Chính phủ trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh; tăng cường mối quan hệ giữa HĐDT với các ủy ban của Quốc hội, HĐDT với các ủy ban của Chính phủ trong giai đoạn thẩm tra dự án luật, pháp lệnh; phân định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; nâng cao trách nhiệm đội ngũ cán bộ tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ trong quy trình lập pháp; nâng cao chất lượng hoạt động thông tin phục vụ công tác xây dựng luật của Quốc hội.

    C. PHẦN KẾT LUẬN
    Hiến pháp 1992 cùng với một số văn bản quy phạm pháp luật khác (Luật tổ chức Quốc hội 2001, Luật tổ chức Chính phủ 2001, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008) đã chỉ ra mối quan hệ giữa hai cơ quan quan trọng trong bộ máy nhà nước Việt Nam. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ có ảnh hưởng sâu rộng đến hầu hết các cơ quan nhà nước khác, nhưng trong đó lại còn tồn tại nhiều bất cập cần khắc phục. Vì vậy, trong thời kì hội nhập, phát triển, cần phải nâng cao hơn nữa hoạt động của bộ máy nhà nước, làm trong sạch bộ máy nhà nước, tạo được sự tin tưởng trong quần chúng nhân dân. Những giải pháp được nhắc đến ở trên chỉ là những ý kiến cá nhân nên không tránh khỏi còn có cái nhìn chưa toàn diện. Muốn hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước cần có sự phối hợp của chính các cơ quan đó và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta.



    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
    1. Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001).
    2. Luật tổ chức Quốc hội 2001.
    3. Luật tổ chức Chính phủ 2001.
    4. Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội 2003.
    5. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008.
    6. Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn tại kì họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII.
    7. Báo cáo kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội năm 2012, và phương hướng hoạt động giám sát năm 2013.
    8. Giáo trình Luật Hiến Pháp Việt Nam, Đại học luật Hà Nội, Nxb.Công An Nhân Dân, Hà Nội, 2011.
    9. Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ theo pháp luật hiện hành, khóa luận tốt nghiệp, Nguyễn Đài Bắc.
    10. Mối quan hệ pháp lí giữa Quốc hội và Chính phủ trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, luận văn, Vũ Thu Hằng.
    11. Hoàn thiện mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong quy trình lập pháp, Luận văn thạc sỹ, Đỗ Ngọc Thùy Trang.
    12. www.na.gov.vn
    13. http://vov.vn/
    14. www.nhandan.com.vn
    15. www.vietnamplus.vn
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...