Luận Văn Mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CHƯƠNG 1:
    CÁC BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ
    VÀNG VÀ LẠM PHÁT
    1.1 Vàng là dấu hiệu chỉ báo và bảo hiểm chống lại lạm phát.
    Nghiên cứu này cố gắng điều tra xem liệu vàng hay dầu là chỉ báo tốt hơn về
    lạm phát và cố gắng tìm ra giữa vàng và dầu, đâu là nhân tố cung cấp hàng rào
    chống lại lạm phát tốt hơn ở Thổ Nhĩ Kỳ. Các mối quan hệ lâu dài giữa giá dầu,
    vàng và tỷ lệ lạm phát đã được điều tra bằng cách sử dụng dữ liệu hàng tháng về
    giá dầu, vàng và tỷ lệ lạm phát. Các dữ liệu bao gồm các giai đoạn từ ngày
    10/02/1994 đến ngày 12/02/2008. Phát hiện của nghiên cứu cho thấy rằng chỉ số
    CPI hiển thị một mối tương quan cao với cả giá vàng và giá dầu. Kết quả cũng
    cho thấy vàng là một chỉ số dự báo lạm phát tốt hơn so với dầu. Nghiên cứu kết
    luận rằng khả năng bảo hiểm rủi ro lạm phát của cả vàng và dầu phụ thuộc vào
    sự tồn tại của một mối quan hệ ổn định lâu dài với tỷ lệ lạm phát, với lưu ý rằng
    vàng và CPI cũng như giá dầu và CPI không có quan hệ đồng liên kết có nghĩa
    là không có mối quan hệ lâu dài giữa tỷ lệ lạm phát và giá vàng, giá dầu.
    Sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods năm 1971, các nhà đầu tư bắt đầu
    tìm kiếm các loại tiền tệ làm "nơi trú ẩn an toàn". Tuy nhiên các loại tiền tệ an
    toàn nhất lại có liên quan đến nguy cơ kinh tế và chính trị. Vào thời điểm đó đầu
    tư vàng hóa ra là một cách để tự bảo hiểm rủi ro. Vàng đóng vai trò tiền tệ trong
    nhiều thế kỷ và không bao giờ được sử dụng trong quá trình sản xuất do đó nó
    đã giữ sức mua của nó về lâu dài (Jastram, 1977). Vàng khác với các tài sản
    khác bởi vì tiềm năng đối với vàng là tính thanh khoản cao và nó phản ứng với
    những thay đổi giá (Lawrence, 2003). Hơn nữa, không giống như các hàng hóa
    khác, vàng được sản xuất để tích lũy, tất cả số vàng đã từng được khai thác vẫn
    còn tồn tại đến ngày hôm nay (Ranson và Wainwright, 2005). Bởi vì vàng không
    phải là đầu vào ngành công nghiệp chính, giá cả tương đối của nó không thay
    đổi theo chu kỳ kinh doanh (Ranson và Wainwright, 2005).




    Trang 2
    Hội đồng Vàng Thế giới (2005) tuyên bố vàng là một hàng rào hiệu quả chống
    lạm phát, có tương quan nghịch với đồng đô la Mỹ và do đó là tiền tệ trú ẩn
    chống lại lạm phát tốt. Nếu vàng là hàng rào hoàn hảo trong nội bộ một quốc gia
    thì giá vàng tính theo đồng tiền trong nước đó nên tăng ở mức tương tự như chỉ
    số giá trong nước. Nếu vàng là hàng rào hoàn hảo bên ngoài một quốc gia thì giá
    vàng tính theo đồng tiền nước đó nên tăng cùng một tỷ lệ tương tự như tỷ giá
    của nước đó. Vàng được coi là một hàng rào chống lại lạm phát nếu những thay
    đổi trong lợi nhuận trên đầu tư vàng có thể bù đắp được những thay đổi trong
    mức giá chung của một quốc gia cụ thể.
    Sherman (1986), Jaffe (1989), Chua và cộng sự (1990) đã chứng minh rằng vàng
    cung cấp lợi ích cho việc đa dạng hoá. Ariovich (1983), Aggarwal và cộng sự
    (1992), Dooley và cộng sự (1995) chỉ ra rằng vàng là một hàng rào hiệu quả
    chống lại lạm phát, tình trạng bất ổn chính trị và rủi ro tiền tệ.
    Laurent (1994) điều tra các mối quan hệ giữa giá vàng và chỉ số giá bán buôn ở
    Mỹ và kết luận rằng giá vàng và chỉ số giá bán buôn có quan hệ tương ứng chặt
    chẽ từ năm 1888 đến năm 1992. Tuy nhiên giá vàng được tìm thấy biến động
    hơn so với chỉ số giá bán buôn trong ngắn hạn. Garner (1995) kiểm tra các tín
    hiệu bước ngoặt của giá vàng trong giai đoạn 1960-1995 tại Hoa Kỳ để xem giá
    vàng có phải là chỉ báo tốt về lạm phát. Mahdavi và Zhou (1997) so sánh giá
    vàng và giá hàng hóa, đâu là chỉ số lạm phát hàng đầu bằng cách áp dụng
    phương pháp đồng liên kết qua các thời kỳ 1958:Q1-1994:Q4 và 1970:Q1-
    1994:Q4. Kết quả nghiên cứu cho thấy giá vàng có thể là chỉ báo lạm phát tốt
    phụ thuộc vào khoảng thời gian kiểm tra. Harmston (1998) xây dựng sức mua
    của các chỉ số vàng bằng cách chia các chỉ số vàng cho các chỉ số giá bán buôn
    và so sánh các chỉ số này với nhau giữa các nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức và Nhật
    Bản trong những khoảng thời gian khác nhau. Nghiên cứu của ông khẳng định
    rằng vàng là nơi trú ẩn hiệu quả chống lại lạm phát lâu dài. Gosh và cộng sự
    (2002) cũng kết luận rằng có một mối quan hệ lâu dài giữa giá vàng và chỉ số giá
    bán buôn của Mỹ bằng cách sử dụng dữ liệu hàng tháng 1976-1999 với kỹ thuật




    Trang 3
    đồng liên kết. Ranson và Wainright (2005) áp dụng phương pháp bình phương
    bé nhất (OLS) để xem liệu dầu hay giá vàng là chỉ báo tốt hơn về lạm phát và lãi
    suất không dự kiến trước được. Nghiên cứu kết luận rằng giá vàng tốt hơn so với
    giá dầu trong vai trò là yếu tố dự báo lạm phát năm tới.
    Dữ liệu sử dụng trong phân tích được lấy từ tháng 01/1996 đến tháng 02/2008
    với 146 quan sát. Dữ liệu bao gồm các quan sát hàng tháng của giá vàng, giá dầu
    và tỷ lệ lạm phát dựa trên chỉ số giá tiêu dùng thu được từ Istanbul Gold
    Exchange, Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ và Reuters.
    Để đánh giá độ mạnh của mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ lệ lạm phát, dầu và tỷ
    lệ lạm phát, phương pháp đơn giản nhất là nhìn vào cấu trúc tương quan của các
    nhân tố được đo bằng hệ số tương quan. Kiểm định nghiệm đơn vị và tiêu chuẩn
    ADF được áp dụng cho chuỗi số liệu giá vàng, giá dầu và chỉ số giá tiêu dùng để
    xem xét các thuộc tính tĩnh của chúng.
    Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy CPI có liên quan chặt chẽ với cả giá
    vàng và giá dầu với thực tế là vàng có tương quan với chỉ số CPI nhiều hơn so
    với giá dầu. Các khả năng bảo hiểm rủi ro lạm phát của vàng và dầu phụ thuộc
    vào sự tồn tại của một mối quan hệ ổn định lâu dài giữa tỷ lệ lạm phát và giá
    vàng, giá dầu. Tuy nhiên, kiểm định đồng liên kết khẳng định rằng giá vàng và
    CPI cũng như giá dầu và CPI không có quan hệ đồng liên kết, có nghĩa là không
    có mối quan hệ lâu dài giữa tỷ lệ lạm phát và giá vàng, giá dầu.
    1.2 Lạm phát gây nên sự tăng giá của vàng.
    Điểm mới của bài nghiên cứu này là tiến hành phân tích về mối quan hệ đồng
    liên kết và đồng bộ hoá giữa thị trường vàng và dầu giao ngay cũng như giao
    sau. Tác giả đưa ra khung khái niệm rằng khi giá dầu tăng, tạo sức ép làm tăng
    lạm phát, điều này thúc giục các nhà đầu tư đầu tư vào vàng để chống lại lạm
    phát. Bài nghiên cứu cũng kiểm tra mối liên hệ dài hạn giữa giá vàng và giá dầu
    trên thị trường giao sau ở các kỳ hạn thanh toán khác nhau và chứng cứ làm
    sáng tỏ mối quan hệ đồng liên kết. Điều này hàm ý rằng: (a) các nhà đầu tư sử
    dụng thị trường vàng làm công cụ chống lại lạm phát, và (b) thị trường dầu có
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...