Thạc Sĩ Mối quan hệ giữa độ nhạy cảm của lượng tiền mặt nắm giữ và dòng tiền của doanh nghiệp – bằng chứng t

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 20/8/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài nghiên cứu năm 2014
    Mối quan hệ giữa độ nhạy cảm của lượng tiền mặt nắm giữ và dòng tiền của doanh nghiệp – Bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam




    MỤC LỤC

    1. TỔNG QUAN BÀI NGHIÊN CỨU . 1
    1.1. Lý do chọn đề tài 1
    1.2. Mục tiêu nghiên cứu . 2
    1.3. Phương pháp nghiên cứu 2
    1.4. Bố cục của đề tài . 4
    2. CÁC NGHIÊN CỨU TRưỚC ĐÂY 5
    3. PHưƠNG PHÁP NGIÊN CỨU . 16
    3.1. Xây dựng giả thiết 16
    3.2. Giới thiệu mô hình 17
    3.2.1. Các biến nghiên cứu 21
    3.2.2. Dữ liệu nghiên cứu 24
    3.2.3. Các bước tiến hành 25
    4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU . 26
    4.1. Thống kê mô tả dữ liệu . 26
    4.2. Mối quan hệ giữa lượng tiền mặt nắm giữ và dòng tiền hoạt động của công ty
    30
    4.3. Tính bất cân xứng của độ nhạy cảm tiền mặt xem xét theo các mức độ giới
    hạn về tài chính . 34
    4.4. Tính bất cân xứng của độ nhạy cảm tiền mặt khi xem xét tác động
    của chi phí đại diện . 37
    5. KẾT LUẬN 39
    5.1. Kết luận . 39
    5.2. Hạn chế của đề tài . 41
    5.3. Hướng nghiên cứu tiếp theo 41




    TÓM TẮT

    Các nghiên cứu trước đây đã đưa ra những kết luận trái chiều về độ nhạy cảm
    của tiền mặt với dòng tiền của công ty. Dựa vào những lý thuyết và mô hình thực
    nghiệm trước, tôi sử dụng mô hình thực nghiệm bổ sung để khẳng định lại những kết
    luận của Almeida và cộng sự rằng độ nhạy cảm của tiền mặt đối với dòng tiền nói
    chung là đồng biến. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu chỉ ra độ nhạy cảm của tiền mặt với
    dòng tiền là bất đối xứng. Sự bất đối xứng có thể do một số nguyên nhân, trong đó có
    những điều khoản ràng buộc của dự án, việc che giấu những thông tin xấu và chi phí
    đại diện. Sử dụng mẫu các công ty phi tài chính từ năm 2008 đến năm 2012, bài viết
    ghi nhận rằng độ nhạy cảm đối với dòng tiền của tiền mặt là nghịch biến khi công ty
    có dòng tiền dương, nhưng độ nhạy cảm của tiền mặt đối với dòng tiền là đồng biến
    khi công ty có dòng tiền âm. Tiếp tục phân chia các mẫu thành những công ty bị giới
    hạn và không bị giới hạn về tài chính và thấy rằng độ nhạy cảm của tiền mặt với dòng
    tiền vẫn là bất đối xứng ở cả 2 nhóm công ty. Bên cạnh đó, nhằm bổ sung cho lý
    thuyết nghiên cứu, tôi sử dụng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các tổ chức bên ngoài như
    một công cụ kiểm soát vấn đề đại diện, ta thấy rằng các công ty có giám sát bên ngoài
    chặt chẽ hơn sẽ giảm tiết kiệm để nắm bắt các cơ hội đầu tư tốt. Tất cả các kết quả
    ủng hộ giả thuyết thể hiện rằng các công ty có mức độ phản ứng khác nhau đối với
    việc nắm giữ tiền mặt khi phải đối mặt với dòng tiền dương và âm.





    1. TỔNG QUAN BÀI NGHIÊN CỨU
    1.1. Lý do chọn đề tài
    Việc quản lý và sử dụng tiền mặt luôn đặt ra rất nhiều thách thức cho mỗi
    doanh nghiệp, làm thế nào để đầu tư lượng tiền mặt nhàn rỗi nhằm thu lợi nhuận
    nhưng vẫn đảm bảo mức thanh khoản hợp lý để đáp ứng các nhu cầu trong tương lai
    là câu hỏi lớn đối với nhà quản trị và cả những nhà nghiên cứu. Lượng tiền mặt dồi
    dào tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm bắt được ngay những cơ hội đầu tư tốt khi
    chi phí tài trợ bên ngoài quá cao hay chủ động hơn khi phải đối mặt với các cú sốc tài
    chính từ khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, việc doanh nghiệp có quá nhiều
    tiền mặt có phải là một điều tốt? Lượng tiền mặt dư thừa sẽ khiến các nhà đầu tư đặt
    ra những nghi vấn rằng có thể doanh nghiệp đã mất các cơ hội đầu tư hoặc ban quản
    trị doanh nghiệp quá yếu kém nên đã không biết làm gì với lượng tiền mặt đó. Và một
    nhà quản trị thông minh sẽ không bao giờ bỏ qua yếu tố “chi phí cơ hội” của việc nắm
    giữ tiền mặt. Chi phí cơ hội của tiền mặt trong trường hợp này chính là sự khác nhau
    giữa nhau giữa lãi suất có được khi nắm giữ tiền mặt và cái giá phải trả để có tiền mặt,
    nhưng cái giá này thường rất đắt. Bên cạnh đó, chi phí đại diện cũng rất dễ xảy ra
    trong tình huống này. Khi có nhiều tiền mặt, các nhà quản trị sẽ có nhiều động cơ
    thực hiện những vụ thâu tóm lãng phí và đầu tư vào các dự án kém hiệu quả nhằm
    tranh thủ tìm kiếm lợi ích cá nhân. Vậy làm thế nào để cân bằng những cơ hội, thách
    thức khi nắm giữ tiền và tìm ra điểm dự trữ tối ưu của doanh nghiệp?
    Để trả lời cho câu hỏi này, các nhà nghiên cứu đã công bố rất nhiều công trình
    nhằm làm rõ hơn sự thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ hay cụ thể hơn là đo lường
    độ nhạy cảm của tiền mặt đối với dòng tiền. Trong đó, nổi bật nhất bài nghiên cứu của
    hai nhóm tác giả Almeida et al (2004) và Riddick và Whited (2009). Tuy có cùng
    hướng nghiên cứu nhưng hai nhóm tác giả lại đưa ra những kết luận trái chiều về độ
    nhạy cảm của tiền mặt đối với dòng tiền của doanh nghiệp. Đến năm 2012, Dichu
    Bao, Kam C. Chan và Weining sử dụng mô hình thực nghiệm bổ sung để khẳng định 2

    lại những kết luận của Riddick và Whited cho rằng độ nhạy cảm của tiền mặt đối với
    dòng tiền nói chung là nghịch biến. Quan trọng hơn nữa, bài nghiên cứu mới này đã
    khẳng định độ nhạy cảm của tiền mặt với dòng tiền là bất đối xứng. Các kết quả này
    khi công bố đã gây bất ngờ cho các nhà nghiên cứu và đặt nền móng cho các nghiên
    cứu sau này. Với tôi, câu hỏi lớn nhất là đối với các công ty tại Việt Nam độ nhạy
    cảm dòng tiền như thế nào, có tuân theo quy luật của những bài nghiên cứu ở trên hay
    không. Ứng dụng các lý thuyết và kết quả thực nghiệm trong bài nghiên cứu của các
    tác giả, tôi thực hiện đề tài “Mối quan hệ giữa tiền mặt và dòng tiền. Bằng chứng thực
    nghiệm từ Việt Nam” nhằm tìm hiểu tiền mặt sẽ biến động như thế nào khi dòng tiền
    của doanh nghiệp thay đổi, đồng thời đo lường tác động của việc nắm giữ tiền mặt
    của những doanh nghiệp bị giới hạn so với những doanh nghiệp không bị giới hạn về
    tài chính.
    1.2. Mục tiêu nghiên cứu
    Bài nghiên cứu tập trung vào hai mục tiêu chính. Mục tiêu đầu tiên là kiểm tra
    xem độ nhạy cảm đối với dòng tiền của tiền mặt là đồng biến hay nghịch biến bằng
    cách sử dụng mô hình thưc nghiệm đối với các công ty phi tài chính ở Việt Nam. Thứ
    hai, sau khi khẳng định độ nhạy cảm âm của tiền mặt đối với dòng tiền, tôi tiếp tục
    kiểm tra xem liệu các công ty có thể hiện tính bất đối xứng trong độ nhạy cảm của
    tiền mặt đối với trường hợp dòng tiền âm hay dương không. Để làm rõ hai mục tiêu
    này, tôi lần lượt tìm câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau:
    Sự thay đổi lượng tiền mặt nắm giữ giữa các công ty có dòng tiền dương và
    dòng tiền âm có phản ứng giống nhau hay không?
    Tính bất đối xứng có khác biệt giữa các công ty bị giới hạn và không bị giới
    hạn về tài chính hay không?
    Các yếu tố nào tác động đến độ nhạy cảm của tiền mặt đối với dòng tiền
    của doanh nghiệp?
    1.3. Phương pháp nghiên cứu 3

    Dựa trên bài nghiên cứu “The corporate propensity to save” của Riddick và
    Whited được công bố vào năm 2009, Dichu Bao, Kam C. Chan và Weining Zhang đã
    phát triển và hoàn thiện mô hình ước lượng bằng cách thêm vào một số biến kiểm soát
    quan trọng như quy mô doanh nghiệp, chi phí vốn, vốn lưu động không bằng tiền, và
    mức nợ ngắn hạn nhằm nghiên cứu một cách toàn diện các yếu tố tác động như thế
    nào đến việc nắm giữ tiền mặt của doanh nghiệp. Bài nghiên cứu dựa trên 3 mô hình
    cơ sở tương ứng với 3 trường hợp dưới dạng tổng quát:
    Mô hình kiểm tra độ nhạy cảm của tiền mặt đối với dòng tiền khi công
    ty đối mặt với dòng tiền âm hay dương. Phương trình (1) được hồi quy bằng cả 2
    phương pháp là OLS và GMM4 nhằm kiểm tra xem kết quả giữa hai phương pháp có
    tương đồng hay không, từ đó xác định phương pháp nào phù hợp với những giả thiết
    của bài nghiên cứu.




    Tài liệu tham khảo
    D.Bao et al (2012), Asymmetric cashflow sensitivity of cash holding. Journal
    of Corporate Finance 18 (2012) 690 – 700
    Acharya, V.V., Almeida, H., Campello, M., 2007. Is cash negative debt? A
    hedging perspective on corporate financial policies. J. Financ. Intermed. 16,
    515–554.
    Almeida, H., Campello, M., Weisbach, M.S., 2004. The cash flow sensitivity
    of cash. J. Finance 59, 1777 – 1804.
    Erickson, T., Whited, T.M., 2000. Measurement error and the relationship
    between investment and Q. J. Polit. Econ. 108, 1027 – 1057.
    Faulkender, M., Wang, R., 2006. Corporate financial policy and the value of
    cash. J. Finance 61, 1957 – 1990.
    Riddick, L.A., Whited, T.M., 2009. The corporate propensity to save. J.
    Finance 64, 1729 – 1766.
    Klaas Mulier, K., Schoors, K., Merlevede, B. Investment Cash Flow
    Sensitivity: The Role of Cash Flow Volatility
    Khurana, I.K, Martin, X., Pereira, R., 2006. Financial Development and the
    Cash Flow Sensitivity of Cash.
    Jensen, M.C., 1986. Agency costs of free cash flow, corporate finance and
    takeovers. Am. Econ. Rev. 76, 323–329.
    Monica Marin, Greg Niehaus, 2011. On the Sensitivity of Corporate Cash
    Holdings and Hedging to Cash Flows
    Jensen, M.C., Meckling, W.H., 1976. Theory of the firm: managerial
    behavior, agency cost and ownership structure. J. Financ. Econ. 3, 305–360.
    Kaplan, S.N., Zingales, L., 1997. Do investment-cash flow sensitivities
    provide useful measures of financing constraints? Q. J. Econ. 112, 169–216.
    Kothari, S.P., Shu, S., Wysocki, P.D., 2009. Do managers withhold bad
    news? J. Account. Res. 47, 241–276.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...