Tiểu Luận Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    A. LỜI MỞ ĐẦU

    Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, xét cho cùng đều bị các quan hệ kinh tế quyết định. Lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử vận động, phát triển, thay thể lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp lên cao. Sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là do sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
    Để phù hợp với trình độ phát triển thấp ở các giai đoạn đầu tiên của lịch sử loài người, triết học ra đời với tư cách là khoa học tổng hợp các tri thức của con người về hiện thực xung quanh và bản thân mình. Sau đó sự phát triển của xã hội triết học đã tách ra khỏi thành khoa học độc lập, triết học với hệ thống những quan niệm, quan điểm có tính chất chính thể về thế giới ,về các quá trình vật chất, tinh thần và mối quan hệ giữa chúng, về nhận thức và cải biên thế giới.
    Do vậy, triết học nghiên cứu về vấn đề: tư duy, xã hội và tự nhiên. Trong đó vấn đề xã hội là vấn đề mang tính hình thái kinh tế, phản ánh động lực sự phát triển xã hội thông qua lực lượng sản xuất. Để có cơ chế, cách thức trong sự phát triển xã hội thì cần phải có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Vì thế, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một vấn đề đặc biệt cần phải quan tâm.

    B. NỘI DUNG CHÍNH

    I.CƠ SỞ HẠ TẦNG
    1.Khái niệm

    Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Dựa vào khái niệm đó, nó đã phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ xã hội của các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội.
    Đúng vậy, mỗi một hình thái kinh tế xã hội có một kết cấu kinh tế đặc trưng là cơ sở hiện thực của xã hội, hình thành một cách quan trọng trong qua trình sản xuất vật chất không những thế nó còn bao gồm cả quan hệ kinh tế, trao đổi trong quá trình tái sản xuất ra đời sống vật chất của con người.

    2.Đặc điểm, tính chất

    Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể thường bao gồm: kiểu quan hệ sản xuất thống trị trong nền kinh tế. Đồng thời trong mối cơ sở hạ tầng xã hội còn có những quan hệ sản xuất khác nhau như dấu vết, tàn trữ quan hệ sản xuất cũ và mầm mống, tiền đề của quan hệ sản xuất mới. Cuộc sống của xã hội cụ thể được đặt trước hết bởi kiểu quan hệ sản xuất thống trị tiêu biểu cho cuộc sống ấy và những quan hệ sản xuất quá độ hay những mầm mống,tàn dư cũ mới có vai trò nhất định, giữa chúng tuy có khác nhau nhưng không tách rời nhau, vừa đấu tranh với nhau, vừa liên hệ với nhau và hình thành cơ sở hạ tầng của mỗi xã hội cụ thể ở mối giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
    Ví dụ như: Trong xã hội phong kiến ngoài quan hệ sản xuất phong kiến chiếm địa vị thống trị , nó còn có quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội chiếm hữu nô lệ, mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và chính 3 yếu tố cấu thành nên cơ sở hạ tầng phong kiến.
    Đặc trưng cho tính chất của một cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuất thống trị quy định. Quan hệ sản xuất thống trị quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế – xã hội. Quyết định tính chất cơ bản của toàn bộ cơ sở hạ tầng xã hội đương thời mặc dù quan hệ tàn dư,mầm mống có vị trí không đáng kể trong xã hội , có nền kinh tế xã hội phát triển đã trưởng thành, nhưng lại có vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của xã hội đang ở giai đoạn mang tính chất quá độ.
    Cơ sở hạ tầng mang tính chất đối kháng tồn tại trong xã hội mà dưạ trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Tính chất đối kháng của cơ sở hạ tầng được bắt nguồn từ những mâu thuẫn nội tại không thể điều hòa được trong cơ sở hạ tầng đó và do bản chất của kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Đó là sự biểu hiện của sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa các tập đoàn người trong xã hội.
    Như vậy, cơ sở hạ tầng là tổng thể và mâu thuẫn rất phức tạp, là quan hệ vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người. Nó được hình thành trong quá trình sản xuất vật chất và trực tiếp biến đổi theo sự tác động và phát triển của lực lượng sản xuất.

    II.KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
    1.Khái niệm

    Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền,đạo đức, triết học, tôn giáo, nghệ thuật với những thể chế tương ứng: nhà nước, đảng phái, giáo hội các đoàn thể được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
    Bởi vậy, kiến trúc thượng tầng là một hiện tượng xã hội, biểu hiện tập trung đời sống tinh thần của xã hội, là bộ mặt tinh thần tư tưởng của hình thái kinh tế - xã hội. Nó đóng vai trò quan trọng cùng các bộ phận xã hội khác trong xã hội hợp thành cơ cấu hoàn chỉnh của hình thái kinh tế - xã hội.

    2.Đặc điểm, tính chất

    Như vậy, các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đểu ra đời và có vai trò nhất định trong việc tạo nên bộ mặt tinh thần, tư tưởng của xã hội phát triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, là phản ánh cơ sở hạ tầng. Song không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên quan với cơ sở hạ tầng của nó mà trong xã hội có giai cấp, tư tưởng chính trị, tư tưởng pháp quyền cùng những tổ chức tương ứng như chính đảng, nhà nước là những bộ phận quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất và là thành phần chính của kiến trúc thượng tầng, tiêu biểu cho chế độ chính trị, xã hội ấy. Ngoài ra còn có các yếu tố khác đối lập với những tư tưởng, quan điểm, tổ chức chính trị của các giai cấp bị trị.
    Kiến trúc thượng tầng có xã hội đối kháng giai cấp mang tính giai cấp sâu sắc. Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng biểu hiện ở sự đối lập về quan điểm,tư tưởng và các cuộc đấu tranh về tư tưởng của giai cấp đối kháng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng của xã hội có tính chất đối kháng giai cấp là nhà nước. Đây là công cụ giai cấp thống trị tiêu biểu cho xã hội về mặt pháp lý-chính trị.

    III. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong xã hội

    Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì nhà nước và pháp luật quy định quan hệ kinh tế, ý thức, tư tưởng quy định tiến trình phát triển trong xã hội. Theo chủ nghĩ duy vật, kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định còn ý thức, tư tưởng, chính trị không có vai trò gì đối với tiến bộ xã hội. Nhưng theo chủ nghĩa Mac-Lê nin, đã khẳng định: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng không tách rời nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Còn kiến trúc thượng tầng là phản ánh cơ sở hạ tầng, nhưng nó có vai trò tác động trở lại to lớn đối với cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
    Trong sự thống nhất biện chứng này,sự phát triển của cơ sở hạ tầng đóng vai trò với kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với tính chất trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng hay cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy. Sự biến đổi giữa 2 yếu tố này cũng tuân theo mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng diễn ra theo 2 hướng:
    Một là: Sự phát triển hoặc giảm đi về lượng dẫn đến sự biến đổi ngay về chất
    Hai là: Sự tăng hay giảm về lượng không làm cho chất thay đổi ngay mà thay đổi dần từng bước
    Theo quy luật này thì quá trình biến đổi giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra như sau: Khi cơ sở hạ tầng phát triển đến một mức độ giới hạn nào đó gọi là điểm nút thì nó đòi hỏi phải kéo theo sự thay đổi về kiến trúc thượng tầng. Quá trình này không chỉ đơn thuần là sự biến một hay nhiều bộ phận mà là sự chuyển đổi cả một hình thái kinh tế chính trị và hình thái kinh tế chính trị ưu thế sẽ chiếm giữ giai đoạn lịch sử này: Trong giai đoạn hình thái kinh tế chính trị đó chiếm giữ thì cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có sự dung hòa với nhau hay đạt được giới hạn độ. Tại đây cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tác động biện chứng với nhau theo cách thức bắt đầu sự thay đổi tuần tự về cơ sở hạ tầng nhưng tại đây kiến trúc thượng tầng chưa có sự thay đổi.
    Cơ sở hạ tầng ở mỗi giai đoạn lịch sử lại mâu thuẫn phủ định lẫn nhau dẫn đến quá trình đào thải. Mac nói “nếu không có phủ định những hình thức tồn tại đã có trước thì không thể có sự phát triển bất cứ lĩnh vực nào”chính cơ sở hạ tầng cũ được thay thế bằng cơ sở hạ tầng mới bao hàm những mặt tích cực tiến bộ của cái cũ đã được cải tạo đi trên những nấc thang mới. Chính vì cơ sở hạ tầng thường xuyên vận động nên kiến trúc thượng tầng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ sở hạ tầng.

    a.Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng xã hội
    Mỗi hình thái kinh tế xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó. Do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau và cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng.
    Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng thể hiện trước hết là ở chỗ: Cơ sở hạ tầng là những quan hệ vật chất khách quan quyết định mọi quan hệ khác như: chính trị, tinh thần, tư tưởng xã hội. Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy, nói cách khác cơ sở hạ tầng đã sinh ra kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng bao giờ cũng phản ánh một cơ sở hạ tầng nhất định, không có kiến trúc thượng tầng cho mọi xã hội.
    Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng về tính chất, nôi dung và kết cấu: Tính chất của kiến trúc thượng tầng đối kháng hay không đối kháng, nội dung của kiến trúc thượng tầng nghèo nàn hay đa dạng, phong phú và hình thức của kiến trúc thượng tầng gọn nhẹ hay phức tạp do cơ sở hạ tầng quyết định.
    Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Mac viết:cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả các kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị thay đổi ít nhiều nhanh chóng.
    Sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rõ rệt khi cơ sở hạ tầng này thay thế cơ sở hạ tầng khác. Nghĩa là khi cách mạng xã hội đã đến sự thủ tiêu cơ sở hạ tầng cũ bị xóa bỏ và thay thế cơ sở hạ tầng mới thì sự thống trị cũ bị xóa bỏ và thay thế bằng sự thống trị giai cấp mới. Qua đó mà chính trị của giai cấp thay đổi, bộ máy nhà nước mới thành lập thay thế nhà nước cũ, ý thức xã hội cũng biến đổi.
    Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra do khách quan của cuộc đấu tranh gay go, phức tạp giữa các giai cấp thống trị và giai cấp bị trị mà đỉnh cao là cách mạng xã hội. Những biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xét cho cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng lực lượng sản xuất trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và sự biến đổi của cơ sở hạ tầng đến lượt nó lại làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi.
    Trong sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, không phải cứ cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì kiến trúc thượng tầng mới mất đi ngay mà bộ phận thay đổi dần dần chậm chạp. Vì trong cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới những tàn dư của cái cũ còn tồn tại rất lâu. Mặt khác, cũng có những yếu tố, những hình thức không cơ bản nào đó của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp mới giữ lại, cải tạo để phục vụ cho yêu cầu phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới.
    Như vậy, chúng ta có thể thấy cơ sở hạ tầng có quyết định to lớn đối với kiến trúc thượng tầng, do đó trong cách mạng xã hội chủ nghĩa việc xây dựng cơ sở chủ nghĩa có tác dụng vô cùng to lớn đối với cuộc sống của xã hội. Chính vì tầm quan trọng của nó mà khi xem xét, cải tạo từ cơ sở hạ tầng xã hội và tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ một hình thái kinh tế xã hội khác.
    Tuy vậy, những quan hệ tinh thần, tư tưởng của xã hội đó là kiến trúc thượng tầng, cũng không hoàn toàn thụ động, nó có vai trò tác động trở lại to lớn đối với cơ sở hạ tầng sinh ra nó.

    b.Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

    Trong mối quan hệ với cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng phản ánh cơ sở hạ tầng biểu hiện tập trung đời sống tinh thần xã hội, do đó nó có vai trò tác động to lớn trở lại với cơ sở hạ tầng.
    Là một bộ phận cấu thành hình thành kinh tế xã hội, được sinh ra và phát triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, cho nên sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện bằng chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là luôn luôn bảo vệ, duy trì, củng cố, và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã lối thời và lạc hậu.
    Kiến trúc thượng tầng tìm mọi biện pháp để xóa bỏ những tàn dư của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, ngăn chặn những mầm mống tự phát của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới nảy sinh trong xã hội ấy. Thực chất trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tư tưởng, cơ sở kinh tế của nó không đứng vững được. Vì vậy, kiến trúc thượng tầng thực sự trở thành công cụ, phương tiện để duy trì, bảo vệ địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị trong xã hội.
    Trong các yếu tố cấu thành nên kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng, vì nó là một lượng vật chất tập trung sức mạnh, kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị. Nhà nước không chỉ dựa trên hệ tư tưởng mà còn dựa trên những hình thức nhất định trong việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu tố vật chất: quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố địa vị của quan hệ sản xuất thống trị.
    Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đối kháng đấu tranh với nhau giành chính quyền về tay mình, cũng chính là tạo cho mình sức mạnh kinh tế.Sử dụng quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị sẽ không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế trên toàn xã hội, kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng cường lại được tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố vững chắc hơn địa vị kinh tế và xã hội của giai cấp thống trị, cứ như thế sự tác động biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng tạo ra sự phát triển hợp quy luật của kinh tế, chính trị. Ở đây, nhà nước là phương tiện vật chất, có sức mạnh kinh tế, còn kinh tế là mục đích của chính nhau. Cùng với nhà nước, các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng đã tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau, song thương thường những sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật và thể chế tương ứng, chỉ qua đó chúng mới phát huy được hết hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng và đối với toàn xã hội.
    Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nó tác động cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng. Trái lại, khi nó tác động ngược chiều với quy luật kinh tế khách quan nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Hiệu quả tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng phụ thuộc vào năng động chủ quan trong nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế-xã hội vào hoạt động thức tiễn của con người. Kiến trúc thượng tầng có vai trò to lớn định hướng những hoạt động thực tiễn, để lại phương án tối ưu cho kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nếu nhấn mạnh tuyệt đối hóa, phủ nhận tính tất yếu kinh tế của xã hội sẽ phạm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan đối với những hình thức khách nhau.
    Nói tóm lại, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biên chứng với nhau. Do đó, khi xem xét và cải tạo xã hội phải thấy rõ vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng và tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng, không được tuyệt đối hóa hoặc hạ thấp yếu tố nào.
    Trung thành với lý luận Mac-Lênin và vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tiễn ở Việt Nam. Đảng chủ trương tập trung đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác coi đó là nhiệm vụ quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trên lĩnh vực chính trị. Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý về kinh tế-xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính trị, thông tin, tuyên truyền giáo dục, và công cụ khác.

    IV. Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam hiện nay
    Cơ sở hạ tầng nước ta hiện nay là kết cấu kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo nên kiến trúc thượng tầng phải xây dựng, củng cố, đổi mới phù hợp. Phát triển kinh tế nhiều thành phần không nhất thiết phải đa nguyên chính trị tuy nhiên yêu cầu khách quan đặt ra là kiến trúc thượng tầng nước ta phải đổi mới phát triển theo hướng nâng cao chất lượng hình thành chức năng xã hội của mình.
    Trước sự yếu kém của nền hành chính nước ta hiện nay, chính phủ đã đưa ra mục tiêu ”xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu quả”. Trong một số năm gần đây, cải cách hành chính đã được triển khai trên cả 4 nội dung: cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính công, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
    Tuy nhiên, tốc độ cải cách hành chính còn chậm, chưa nhất quán,hiệu quả còn thấp. Nền hành chính có chuyển biến song vẫn tụt hậu so với tốc độ và yêu cầu cải cách của nền hành chính hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế. Tình trạng chung là nhiều cán bộ lãnh đạo và cán bộ công chức ngại thực hiện cơ chế một cửa, do ngại bị bắt buộc, ngại bị rút bớt quân số và lợi ích cục bộ. Mặt khác, trình độ công chức cán bộ ở bộ phận tiếp nhận và trải qua còn nhiều bất cập tỷ lệ đạt chuẩn thấp, nhiều nơi chỉ đạt 20-30%. Trên thực tế, tuy ”một cửa” nhưng vẫn còn nhiều “ổ khóa” do không ít cán bộ, công chức tiêu cực, nhũng nhiễu tạo ra nên người dân chưa hết phiền hà. Trong khi đó, sự chỉ đạo thực hiện cải cách lại thiếu kiên quyết và nhất quán ở các cấp, các nghành, tiền lương mới chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu đời sống của cán bộ, công chức. Hội nghị đã tập trung thực hiện các giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính giai đoạn 2 từ 2006-2010.
    Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm 1986, tính đến nay đã gần 20 năm. Trong khoảng thời gian đó đồng thời với việc đổi mới về kinh tế thì cải cách hành chính cũng được tiến hành. Cuộc cải cách hành chính được thực hiện từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Cải cách hành chính đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy mạnh sự phát triển đất nước.

    C. KẾT LUẬN

    Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một trong những nội dung cơ bản của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là cơ chế thế giới quan và phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo xã hội. Đây là một kết cấu năng động, phong phú được phản chiếu trên nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Như vậy kiến trúc thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế.
    Nắm vững phép biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị vận dụng sáng tạo những chủ trương thắng lợi trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Đảng ta đã sáng suốt khi đề ra bước đầu thực hiện tốt đường lối đổi mới toàn diện bằng cách kết hợp chặt chẽ đổi mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
    Em tin rằng với nhận thức đúng đắn, sáng tạo của mình, cùng với sự nhất trí ra sức phấn đấu của toàn đảng, toàn dân, toàn quân, Đảng ta nhất định lãnh đạo công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi hoàn toàn. Với đà phát triển của sự nghiệp cách mạng hiện nay, công cuộc đổi mới Đảng lãnh đạo nhất định sẽ đưa nước ta lên ngang tầm với các nước đang phát triển trong khu vực và trên thế giới.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...