Tiểu Luận Mô hình thị trường tiền tệ Việt Nam và một số nước trên thế giới

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    I. MỘT SỐ MÔ HÌNH TTTT TIÊU BIỂU
    1. Mô hình thị trường tiền tệ Trung Quốc:

    Từ những năm 90 trở lại đây thị trường tiền tệ Trung Quốc đã phát triên vượt bậc, đặc biệt là so với su phát triển của thị trường chứng khoán. Từ năm 1997 tới nay thị trường tiền tệ đã và đang phát triển nhanh chóng tới cuối năm 2000 tổng khối lượng giao dịch trên thị trường là 5864 tỉ yuan tăng 73% trong vòng 4 năm.Thị trường tiền tệ quả thực đóng một vai trò quan trọng trong cơ cấu thị trường tài chính Trung Quốc. Mô hình thị trường tiền tệ Trung Quốc gồm các bộ phận sau: thị trường tín dung, thị trường liên ngân hàng, thị trường mở, thị trường mua lại, thị trường mua bán và chiêt khấu thương phiếu.Mô hình này được biểu diễn dạng sơ đồ như sau:


    Cung giống như các nước khác, thị trường tiền tệ Trung Quốc cũng bao gồm thị trương tín dụng. Thị trường truyền thống này hiện vẫn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, thể hiện qua các nghiệp vụ đi vay và cho vay của các ngân hàng đối với khách hàng của họ. Các hình thức giao dịch như: huy động tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiề gửi tiết kiệm, tiền gửi của kho bạc nhà nước .Bên cạnh đố là các nghiệp vụ cho vay với các hình thức phong phú như cho vay tiêu dùng, cho vay tài trợ vốn lưu động Trong cuộc khủng hoảng tài chính cuối năm 2008 ,cũng như nhiều chính phủ khác, Bắc Kinh đã đối phó với bằng một gói kích thích kinh tế lớn, trị giá 4.000 tỷ nhân dân tệ (586 tỷ đô la Mỹ), thực hiện trong hai năm. Nhưng không giống các chính phủ khác, ngoài gói kích thích này, Bắc Kinh còn ra lệnh – chứ không phải yêu cầu – các ngân hàng thực hiện một biện pháp kích thích tương tự dưới hình thức đẩy mạnh cho vay. Trong năm 2009, các ngân hàng Trung Quốc đã cho vay tới 10.000 tỷ nhân dân tệ, gấp đôi mức của năm trước. Cho đến nay nguồn tài chính khổng lồ này đã giúp Trung Quốc chống đỡ cơn bão kinh tế một cách xuất sắc, nhưng đây là một biện pháp tốn kém. Riêng trong ngành ngân hàng, bùng nổ tín dụng đe dọa xóa sạch những tiến bộ đạt được những năm gần đây về việc giảm tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng.

    Các giao dịch cho vay liên ngân hàng được cho phép tiến hành từ năm1986. Trước đây, các chủ thể tham gia thi trường này chỉ bao gồm các thể chế tài chính trong nước. Ngày nay thị trương đang dần mở rộng với các chủ thể mới là các chi nhanh ngân hàng, tổ chúc tin dụng, công ty môi giới chứng khoán nước ngoài. Tinh tơi tháng 9 năm 2006 số lượng các chủ thể là 1335 tổ chức. Trong số đó,các ngân hàng thương mại nhà nước la người cho vay chủ yếu con các ngân hàng thương mại, thể chế tài chính, công ty môi giới chứng khoán khác là người đi vay chủ yếu.
    Các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng là cho vay liên ngân hàng, cash bond, giao dịch mua lại. Về mặt lượng, các giao dịch cho vay lien ngân hàng chiếm một tỷ lệ nhỏ trong khi các loại giao dich về trái phiếu chiếm một tỷ lệ lớn hơn 90% tổng khối lượng giao dịch, trong đó giao dịch mua lại chiếm 70%. Ta có thể thấy cụ thể hơn thông qua bảng số liệu sau:

    (100mn RMB)
    2003 2004 2005 2006/1/9
    Total 172,165 133,964 231,923 274,968
    Interbank lending 24,113 14,556 12,783 13,714
    Cash bond 30,849 25,041 60,133 76,815
    repo 117,203 94,368 159,007 184,439

    @ Cấu trúc lãi suất :


    CHIBOR:
    Từ năm 1996, các tổ chức TC được phép ấn định tỷ lệ lãi suất liên ngân hàng vay và cho vay.Kỳ hạn cho vay Liên ngân hàng khác nhau từ qua đêm đến 4 tháng.PBC cho phép đối với kỳ hạn trên 4 tháng phải thoả thuận giữa các đối thủ cạnh tranh.
    Hệ thống lãi suất được đặt ra dựa trên lãi suất tín dụng cơ bản trong các giao dịch lien ngân hàng,với kì hạn 7 ngày như lãi suất chuẩn.
    Tuy nhiên lãi suất này không đưa ra được mức lãi suất chuẩn.
    CHIBID:
    Là mức lãi suất trung bình mà các NH sẵn sàng cho nhau vay trên thị
    trường.
    SHIBOR:
    Là lãi suất hàng ngày được đặt ra dựa trên lãi suất cơ bản của 16 NH, với phạm vi kỳ hạn từ qua đêm cho đến 1năm.
    Shibor nhạy cảm với lãi suất cơ bản của thị trường hơn so với Chibor, được đưa ra dựa trên mức lãi suấ cơ bản được niêm yết.

    Lãi suất repo, lai suất cho vay, lái suất CBPR la những lãi suất tham khảo chủ yếu trên thị trường tiền tệ. Trong đó lãi suât repo la loại lãi suất thường được sử dụng nhiều nhất vì loại giao dịch nay la phổ biến. Lãi suât CHIBOR là lãi suất bình quân trên thị trương cho vay liên ngân hàng. Mặc dù đây là loại lãi suất quạn trọng nhất nhưng vẫn ít được dùng thay cho lái suât repo với các loại giao dịch thời hạn ngắn trong vòng 7 ngày.
    Tháng 1 năm 2007 một loại lãi suất khác đã được dùng lam lai suẩ tham chiếu đó là lãi suất SHIBOR. loại lái suất nay được dùng nhiều hơn vì so với lãi suất CHIBOR lãi suất này cũng là binh quân các lãi suất cho vay giong như LIBOR nhưng nó được thông báo sẵn hàng ngày thậm chí không cần phải co những giao dịch thực tế. Hơn nữa loại này còn có 16 mưc lãi suất tương ứng với 16 mức kỳ hạn từ qua đêm tới 1năm, nhiều hơn lãi suất CHIBOR.

    *Phương thức giao dịch trên thị trường tiền tệ Trụng Quốc:
    Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa tiến hànhcác nghiệp vụ thị trường chủ yếu thông qua nghiệp vụ thị trường mở và điều chỉnh dự trữ bắt buộc.
    -Sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc:
    Mô hình điều chỉnh thị trường đồng nhân dân tệ như sau:


    Ta thấy ,tháng 11/2009 CPI Trung quốc tăng 0,6%, tháng 12 năm 2009 tăng 1,9%. Vốn nóng từ nước ngoài vào Trung quốc tăng mạnh, bong bóng tài sản nhất là bất động sản và chứng khoán đang hình thành, đe doạ sự ổn định của kinh tế vĩ mô. Để đối phó với tình hình diễn biến phức tạp, gần đây Trung quốc đã sử dụng các biện pháp can thiệp mang tính chất định lượng như điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi bằng nhân dân tệ và điều chỉnh lãi suất tín phiếu ngân hàng để hạn chế khối lượng tiền cung ứng và tình trạng tín dụng quá nóng.
    Ngày 18/01/2010, Ngân hàng nhân dân Trung quốc quyết định điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi nhân dân tệ thêm 0,5% . Nếu căn cứ tổng số dư tiền gửi nhân dân tệ cuối tháng 12 năm 2009 là 59.770 tỷ, việc điều chỉnh lần này sẽ làm cho nguồn vốn bị đóng băng gần 300 tỷ nhân dân tệ. Theo tin từ mạng kinh tế Trung quốc ngày 28/01/2010 cho biết, từ ngày 26/01/2010 Ngân hàng nhân dân Trung quốc yêu cầu 4 ngân hàng ( Ngân hàng công thương, Ngân hàng Trung quốc, Ngân hàng tín thác Trung quốc và Ngân hàng Quang đại) điều chỉnh bổ sung tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi thêm 0,5%; đây là 4 ngân hàng đã cho vay bất động sản lớn nhất trong thời gian gần đây.
    -Sử dụng lãi suất tín phiếu NHTƯ:
    Mô hình :điều chỉnh thị trường đồng nhân dân tệ:


    Ngày 19/01/2010, Trung quốc tiếp tục quyết định điều chỉnh lãi suất tín phiếu ngân hàng loại kỳ hạn 1 năm lên 1,9264%, với số lượng phát hành là 24 tỷ nhân dân tệ.
    Trước năm 2003 thị trường mở chi tập trung vào các loại giấy tờ có giá như trái phiếu chinh phủ, tin phiêu kho bạc. Nhưng trái phiêu chinh phủ không đa dạng còn tìn phiếu kho bạc số lượng rất ít nên tháng 4 năm 2003 ngân hàgn Nhân dân Trung hoa đã phất hành tín phiêu ngân hàng trung ương. Từ đây, tín phiếu ngân hàng trung ương trở thành công cụ mới cho nghiệp vụ thị trường mở. Lượng phất hành loại GTCG này đã tăng lên nhanh chóng đạt 3652 tỷ yuan năm 2006, tăng xấp xỉ 30% so với năm 2005 là 2746 tỷ yaun.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...