Tiểu Luận mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    ​ Phần 1: MỞ ĐẦU 2

    1. Đường lối kinh tế Việt Nam thời kỳ trước đổi mới 6
    1.1Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. 6
    1.2. Đặc trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. 8
    1.3. Kết quả và nguyên nhân của sự sai lầm trong quản lý kinh tế theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. 10
    1.4. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. 12
    2.2. Kết quả và ý nghĩa của việc lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 21

    2.2.1.Kết quả và ý nghĩa. 21
    2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân. 22


    Phần 1: MỞ ĐẦU Sản xuất của cải vật chất là hoạt động muôn thuở của loài người, quyết định sự tồn tại và phát triển của loài người. Sản xuất của cải vật chất, với nghĩa chung nhất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên nhằm cải biến các dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cần thiết cho đời sống con người và xã hội. Chính nhờ có hoạt động lao động mà bản thân con người và xã hội loài người mới tồn tại và phát triển; đem lại những sự biến đổi to lớn và có tính chất quyết định, giúp con người mới không ngừng phát triển và hoàn thiện.
    Sản xuất của cải vật chất là một loại hình hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người, bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Theo Ph.Ăngghen: “điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản xuất”[SUP]([1])[/SUP].
    Sản xuất của cải vật chất là một loại hình hoạt động thực tiễn với mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và xã hội. Với nghĩa như vậy, sản xuất vật chất là một loại hoạt động có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo.
    Bất cứ quá trình sản xuất nào cũng gồm ba yếu tố cơ bản: sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động:
    Sức lao động: là toàn bộ thể lực và trí lực của con người có khả năng được vận dụng, sử dụng trong quá trình sản xuất vật chất. Sức lao động và laođộng là hai khái niệm khác nhau nhưng có liên quan với nhau. Lao động là quá trình con người sử dụng sức lao động trong quá trình sản xuất vật chất.
    Sức lao động là tiền đề để có quá trình lao động nhưng nếu không có quá trình lao động thì sức lao động chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng. Đối tượng lao động: là những tồn tại của giới tự nhiên mà con người tác động vào chúng trong quá trình lao động.
    Tư liệu lao động: là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng trong quá trình lao động để tác động vào đối tượng lao động.
    · Sản xuất của cải vật chất giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; nó là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
    Xuất phát từ nhân tố “con người hiện thực” C.Mác cho rằng, tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và đó là việc: “con người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử”. Muốn vậy con người cần có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo . những thứ đó chỉ có thể được tạo ra từ sản xuất vật chất. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên của con người là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, đó là hoạt động cơ bản của con người, là cái để phân biệt hoạt động của con người với con vật. Để tiến hành sản xuất vật chất con người phải có không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà phải có quan hệ với nhau và trên cơ sở những quan hệ sản xuất này mà phát sinh các quan hệ khác như: chính trị, đạo đức, pháp luật .Vì vậy, trong quá trình sản xuất vật chất con người không những làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội đồng thời làm biến đổi cả bản thân mình. Do đó, sản xuất vật chất không ngừng phát triển tất yếu làm cho xã hội không ngừng phát triển.
    Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Sự vận động, phát triển của xã hội suy cho cùng có nguyên nhân từ sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Do đó, để giải thích và giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội thì phải xuất phát từ thực trạng sản xuất vật chất của xã hội.
    Lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất từ thấp đến cao. Suy cho cùng cái để phân biệt các thời đại kinh tế không phải ở chỗ nó sản xuất ra cái gì mà là nó được tiến hành bằng cách nào và với công cụ gì. Quan điểm về vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với trình độ phát triển của sản xuất và xã hội là cơ sở để giải thích sự phát triển của lịch sử nhân loại, đó chính là lịch sử phát triển thay thế của phương thức sản xuất.
    Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất yếu khách quan của quá trình phát triển xã hội loài người từ trình độ thấp đến trình độ cao. Sự thay thế của phương thức sản xuất này bằng phương thức sản xuất khác có thể diễn ra theo quy luật phát triển tuần tự hoặc nhảy vọt, bỏ qua một phương thức sản xuất nào đó trong những điều kiện nhất định, hoặc có thể có sự đan xen giữa các phương thức sản xuất trong những giai đoạn nhất định tạo nên tính phong phú, đa dạng về con đường phát triển của các dân tộc trong lịch sử.
    Nhận thức được vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trên cơ sở đó trong nhận thức là cơ sở giúp cho chúng ta nhận thức được rằng, mọi hoạt động thực tiễn và nhận thức phải dựa trên nền tảng sản xuất vật chất.
    Sự biến đổi của phương thức sản xuất quyết định sự biến đổi, phát triển của xã hội do đó để thúc đẩy xã hội phát triển cần phải thúc đẩy sự phát triển của phương thức sản xuất. Quá trình vận động, phát triển, thay thế của phương thức sản xuất trong lịch sử là quá trình phong phú, đa dạng do đó các dân tộc phải tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể để lựa chọn con đường phát triển riêng của mình, phù hợp với quy luật vận động khách quan của lịch sử.
    Trong suốt quá trình phát triển của loài người đã trải qua 2 hình thức: kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp và kinh tế hàng hóa - kinh tế thị trường.
    Nền kinh tế tự nhiên mang tính tự cung tự cấp đơn giản là con người tiêu dùng những sản phẩm tự họ làm ra, không có hàng hóa để trao đổi; mang tính nhỏ lẻ. Khi sản xuất của cải vật chất ngày càng phát triển, đạt đến một trình độ nào đó, kinh tế tự cung tự cấp không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của con người. Sự phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hoá vẫn tồn tại và phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu ở nước ta; Là cơ sở và là động lực để nâng cao năng suất lao động xã hội nghĩa là làm cho nền kinh tế có ngày càng có nhiều sản phẩm thạng dư dùng để trao đổi mua bán. Do đó làm cho trao đổi mua bán hàng hoá trên thị trường càng phát triển hơn. Thêm vào đó, Sự tồn tại và phát triển của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau tạo nên sự tách biệt giữa các chủ thể kinh tế độc lập cũng là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường ở nước ta.
    Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi mua bán; là nền kinh tế có sự phân công lao động và trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa người này với người khác. Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là "công nghệ", là "phương tiện" để phát triển kinh tế – xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế – xã hội, nó không chỉ bao gồm các yếu tố của lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy, chứng tỏ không có và không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế – xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị – xã hội của một nước.

    [HR][/HR] [1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.34, tr.241.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...