Tài liệu Mô hình phân tích SWOT

Thảo luận trong 'Thương Mại - Marketing' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Mô hình phân tích SWOT


    Mô hình phân tích SWOT là một công cụ rất


    hữu dụng cho việc nắm bắt và ra quyết định


    trong mọi tình huống đối với bất cứ tổ chức kinh


    doanh nào.


    Viết tắt của 4 chữ Strengths (điểm mạnh),


    Weaknesses (điểm yếu), Opportunities (cơ hội)


    và Threats (nguy cơ), SWOT cung cấp một công cụ phân tích chiến lược, rà soát


    và đánh giá vị trí, định hướng của một công ty hay của một đề án kinh doanh.


    SWOT phù hợp với làm việc và phân tích theo nhóm, được sử dụng trong việc lập


    kế hoạch kinh doanh, xây dựng chiến lược, đánh giá đối thủ cạnh tranh, tiếp thị,


    phát triển sản phẩm và dịch vụ.


    Strengths và Weaknesses là các yếu tố nội tại của công ty còn Opportunities và


    Threats là các nhân tố tác động bên ngoài SWOT cho phép phân tích các yếu tố


    khác nhau có ảnh hưởng tương đối đến khả năng cạnh tranh của công ty. SWOT


    thường được kết hợp với PEST (Political, Economic, Social, Technological


    analysis), mô hình phân tích thị trường và đánh giá tiềm năng thông qua yếu tố


    bên ngoài trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội và công nghệ. Phân tích


    theo mô hình SWOT là việc đánh giá các dữ liệu được sắp xếp theo dạng SWOT


    dưới một trật tự logic giúp người đọc hiểu được cũng như có thể trình bày và thảo


    luận để đi đến việc ra quyết định dễ dàng hơn.


    Mô hình SWOT ra đời từ những năm 60 – 70 tại Viện nghiên cứu Stanford với


    quá trình tìm hiểu nguyên nhân thất bại trong việc lập kế hoạch của các công ty, tài trợ bởi 500 công ty lớn nhất thời đó. Nhóm nghiên cứu bao gồm Marion


    Dosher, Dr Otis Benepe, Albert Humphrey, Robert Stewart, Birger Lie. Khởi đầu


    năm 1949 từ công ty Du Pont, chức danh giám đốc kế hoạch công ty (corporate


    planning manager), cho đến năm 1960, xuất hiện ở tất cả 500 công ty lớn nhất


    nước Mỹ. Làn sóng này tiếp tục lan rộng khắp nước Mỹ và Anh. Tuy nhiên sau


    đó, nhiều ý kiến cho rằng lập kế hoạch công ty dưới hình thức kế hoạch dài hạn là


    không ổn và là một hoạt động đầu tư tốn kém nhưng ít hiệu quả. Thực tế cho thấy,


    mấu chốt của vấn đề là làm cách nào để đội ngũ quản lý cùng đồng ý và đưa ra


    được một chương trình hành động có thể nắm bắt được.


    Để giải quyết vấn đề này, Robert F Stewart và năm 1960 đã cùng nhóm nghiên


    cứu của mình tại SRI, Menlo Park California tìm cách tạo ra một hệ thống có thể


    giúp đội ngũ quản lý phát triển tốt công việc của mình. Nghiên cứu kéo dài 9 năm,


    phỏng vấn 1100 công ty và tổ chức với 5000 nhân viên quản lý thông qua bảng


    câu hỏi gồm 250 đề mục, cuối cùng dẫn tới kết luận rằng: trong các công ty, giám


    đốc điều hành phải là trưởng nhóm kế hoạch và các trưởng phòng chức năng dưới


    quyền của ông (bà) ta phải thuộc nhóm lập kế hoạch. Dr Otis Benepe đã định


    nghĩa Chuỗi lôgíc (Chain of Logic), sau đó trở thành hạt nhân của hệ thống được


    thiết kế.


    - Values (giá trị)


    - Appraise (đánh giá)


    - Motivation (động lực)


    - Search (tìm kiếm)


    - Select (lựa chọn)


    - Programme (lên chương trình)


    - Act (hành động)


    - Monitor and repeat steps 1 2 and 3 (giám sát và lặp lại các bước 1, 2 và 3).
    Nhóm nghiên cứu thực hiên bước đầu tiên bằng cách thu thập đánh giá cái gì tốt,


    cái gì tồi trong hoạt động hiện tại và trong tương lai. Điều tốt trong hiện tại thể


    hiện sự thoả mãn (Satisfactory), trong tương lai thể hiện cơ hội (Opportunity), điều


    tồi trong hiện tại thể hiện sai lầm (Fault), trong tương lai thể hiện nguy cơ


    (Threat). Mô hình phân tích này lúc đó được gọi là SOFT. Sau khi mô hình được


    giới thiệu cho Urick vàd Orr năm 1964 tại Zurich Thuỵ Sĩ, họ đã đổi F thành W


    (Weak), SWOT ra đời từ đó. Phiên bản đầu tiên được thử nghiệm và trình bày


    năm 1966 dựa trên công trình tại Erie Technological Corp. Năm 1973, SWOT


    được sử dụng tại J W French Ltd. và phát triển từ đó. Đầu năm 2004, SWOT đã


    được hoàn thiện và thể hiện khả năng đưa ra và thống nhất các mục tiêu của tổ


    chức mà không cần phụ thuộc vào tư vấn hay các nguồn lực tốn kém khác.


    Phân tích SWOT là việc đánh giá một cách chủ quan các dữ liệu được sắp xếp


    theo định dạng SWOT dưới một trật tự lô gíc dễ hiểu, dễ trình bày, dễ thảo luận và


    đưa ra quyết định, có thể được sử dụng trong mọi quá trình ra quyết định. Các mẫu


    SWOT cho phép kích thích suy nghĩ hơn là dựa trên các phản ứng theo thói quen


    hoặc theo bản năng. Mẫu phân tích SWOT được trình bày dưới dạng một ma trận


    2 hàng 2 cột, chia làm 4 phần: Strengths, Weaknesses, Opportunities, and Threats.


    Lưu ý rằng cần xác định rõ ràng chủ đề phân tích bởi SWOT đánh giá triển vọng


    của một vấn đề hay một chủ thể nào đó, chẳng hạn một:


    - công ty (vị thế trên thị trường, độ tin cậy ),


    - sản phẩm hay nhãn hiệu,


    - đề xuất hay ý tưởng kinh doanh,


    - phương pháp


    - lựa chọn chiến lược (thâm nhập thị trường mới hay đưa ra một sản phẩm mới ),


    - cơ hội sát nhập hay mua lại,


    - đối tác tiềm năng,


    - khả năng thay đổi nhà cung cấp,


    - thuê ngoài hay gia công (outsourcing) một dịch vụ, một hoạt động hay một

     

    Các file đính kèm:

Đang tải...