Chuyên Đề Mô hình nghiên cứu những nhân tố ảnh hương đến ý định và quyết định sử dụng thẻ ATM tại Việt Nam

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH VÀ QUYẾT ĐỊNH SỬ DỤNG THẺ ATM TẠI VIỆT NAM

    PGS.,TS. Lê Thế Giới- ThS. Lê Văn Huy

    Sự phát triển của công nghệ mới cùng với những thách thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra yêu cầu cho hệ thống ngân hàng và các công ty tài chính Việt Nam phải tích cực củng cố, tăng cường năng lực tài chính, năng lực quản trị theo lộ trình quy định của Ngân hàng Nhà nước. Đồng thời, các ngân hàng phải đẩy mạnh việc hiện đại hoá, đổi mới công nghệ ngân hàng, đa dạng hóa sản phẩm kinh doanh và đào tạo phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển và hội nhập. Hệ thống giao dịch (rút tiền) tự động ATM ra đời được coi là một kênh ngân hàng tự phục vụ chiến lược, một công cụ quan trọng trong hoạt động bán lẻ của các ngân hàng Việt Nam.

    Theo ATM và Debit News (2001), “máy giao dịch tự động (ATM) là một loại máy điện tử đặt ở nơi công cộng, được kết nối với một hệ thống dữ liệu và các thiết bị liên quan, được kích hoạt bởi chủ thẻ cho phép rút tiền, sử dụng các dịch vụ ngân hàng phát hành thẻ và các ngân hàng khác”.

    Về nguyên tắc, hầu hết các máy ATM được kết nối với hệ thống liên ngân hàng, cho phép khách hàng có thể rút và gửi tiền từ máy ở bất cứ nơi đâu, không phụ thuộc vào nơi mà họ mở tài khoản. Một lợi thế của ATM là cung cấp các dịch vụ ngân hàng 24giờ/ngày, 365 ngày/năm và được đặt tại các địa điểm “chiến lược”, thuận tiện cho khách hàng thực hiện các giao dịch “ngoài giờ hành chính”. Cùng với sự tiến bộ về công nghệ thông tin và sự phổ biến của Internet, ATM không chỉ đơn thuần chỉ để rút tiền - mà còn hơn thế nữa, nó có thể cung cấp một cách hiệu quả các dịch vụ ngân hàng, gia tăng chức năng bảo mật về thông tin đối với người giữ thẻ, đồng thời, chủ thẻ có thể trả tiền bất kì nơi đâu thông qua hệ thống chấp nhận thẻ (ATM và POS). Trên phương diện một ngân hàng, ATM giúp cho ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với chi phí thấp nhất, tạo sự khác biệt về chất lượng phục vụ và thương hiệu để cạnh tranh, giảm thiểu chi phí vận hành và tăng hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng.

    Tại Việt Nam, theo Chỉ thị 58/CT-TW của Bộ Chính trị, các ngân hàng đã tích cực đổi mới hệ thống công nghệ, triển khai chuẩn hoá các hệ thống core-banking, phát triển các sản phẩm và ứng dụng những công nghệ mới đạt tiêu chuẩn quốc tế vào hoạt động kinh doanh ngân hàng. Theo đó, sản phẩm thẻ của các ngân hàng Việt Nam đã có những bước tiến nhảy vọt, nếu năm 2001, trên toàn Việt Nam mới chỉ có khoảng 15.000 thẻ quốc tế, 3.000 thẻ nội địa và khoảng 20 máy ATM, thì tính đến tháng 05 năm 2005, riêng Vietcombank đã có khoảng 400 máy ATM, nếu tính các máy ATM liên kết với một số ngân hàng khác (thẻ ATM của các ngân hàng liên kết có thể sử dụng trên máy ATM của nhau) thì số máy là 450 máy và con số này có thể tăng lên đến 800 máy với 12 ngân hàng cùng liên kết, hiện tại, số lượng thẻ của Ngân hàng này lên đến 700.000 thẻ và số lượng phát hành vào cuối năm 2005 dự kiến sẽ là 1,2 triệu thẻ. Đối với Ngân hàng Công thương, số lượng máy ATM hiện có của ngân hàng này là 135 máy, đến cuối năm, sẽ lắp đặt thêm 200 máy mới đó thật sự là một tín hiệu đáng mừng cho thị trường thẻ Việt Nam. Trong thời gian qua, các ngân hàng đã tập trung rất nhiều nguồn lực về tài chính lẫn nhân lực, cạnh tranh quyết liệt để có thể giành thị phần đối với thị trường thẻ nói chung và thị trường thẻ ATM nói riêng.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...