Tiến Sĩ Mô hình câu hỏi dạy học đọc hiểu văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn trung học

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 28/11/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    PHẦN MỞ ĐẦU
    1. Lí do chọn đề tài
    1.1. Đổi mới giáo dục là một yêu cầu tất yếu đang đặt ra đối với tất cả
    các ngành học, cấp học của hệ thống giáo dục trong những thập kỉ đầu thế kỉ
    XXI. Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị Trung
    ương 8 khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ
    định hướng đổi mới giáo dục là “chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu
    chú trọng trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
    người học”, “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà
    trường kết hợp với gia đình và giáo dục xã hội”, đáp ứng yêu cầu đào tạo
    nguồn nhân lực trong giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp công nghiệp hóa,
    hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước. Để thực hiện tư tưởng đó, cần
    “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát
    huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của
    người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập
    trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự
    cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”, nội dung hình thức
    kiểm tra thi và đánh giá kết quả giáo dục phải chú trọng đánh giá việc hiểu,
    vận dụng kiến thức kĩ năng vào giải quyết các vấn đề trong học tập và thực
    tiễn . Những định hướng trên đặt ra cho các nhà quản lí, chỉ đạo giáo dục và
    đội ngũ GV một yêu cầu và nhiệm vụ quan trọng là cần có những chuyển biến
    về nhận thức và hành động trong quá trình quản lí và dạy học ngay từ bây giờ
    để chuẩn bị những điều kiện tốt nhất cho công cuộc đổi mới giáo dục, đặc biệt
    hướng tới việc triển khai Đề án đổi mới chương trình và SGK giáo dục phổ
    thông sau 2015. Một trong những yêu cầu đổi mới trong dạy học là cần chú
    trọng phát huy cao nhất tính tích cực, chủ động của HS trong học tập, để HS
    có thể trở thành chủ thể trong việc tiếp nhận tri thức và có năng lực vận dụng
    các kiến thức, kĩ năng tiếp nhận được trong học tập vào thực tiễn đời sống. 2


    1.2. Trong cuộc sống, mỗi con người luôn là một cá thể trong mối quan
    hệ với cộng đồng xã hội cũng như với rất nhiều sự vật, hiện tượng xung
    quanh. Để khám phá và thích ứng với môi trường, hoàn cảnh, con người luôn
    có nhu cầu giao tiếp và đối thoại: đối thoại với thế giới tự nhiên, đối thoại với
    người khác và đối thoại với chính mình. Trong đối thoại, CH thường được đặt
    ra như một phương tiện khám phá, một động lực của sự phát triển tư duy cũng
    như nhận thức về đời sống. Dân gian có câu: “Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi
    phải học”; “Muốn lành nghề chớ nề học hỏi” . CH do đó cũng là một công cụ
    cơ bản, quan trọng trong dạy học. Nhữ Bá Sĩ, một thầy giáo danh tiếng thời
    Nguyễn đã khuyên cả người dạy và người học cần phát huy tính tích cực bằng
    cách nêu CH, không thích thú cứ phải đọc, không nghi ngờ cứ phải hỏi, bọn
    học trò nhỏ các anh đừng bỏ qua công phu thì giờ để học, để hỏi. Đặt được
    CH là nêu ra được vấn đề, kích thích tư duy phải suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện
    và giải quyết vấn đề. Với HS, nêu ra được CH thể hiện một năng lực tự định
    hướng trong học tập, do đó CH được coi như một công cụ học tập tích cực,
    một mục tiêu cần hướng tới của chương trình giáo dục phát triển năng lực. Để
    đạt được điều này, yêu cầu đặt ra là không chỉ biết đặt câu hỏi mà câu hỏi cần
    đặt đúng, trúng, tiếp cận được bản chất của vấn đề.
    1.3. Việc xây dựng CH như thế nào trong quá trình tổ chức dạy học các
    môn học, trong đó có môn Ngữ văn cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng.
    Trong SGK Ngữ văn, CH được sử dụng khá nhiều khi hướng dẫn HS tìm hiểu
    nội dung các bài học. Khi xây dựng giáo án và dạy học trên lớp, hệ thống CH
    thường được sử dụng như một điểm tựa để giáo viên tổ chức tiến trình dạy
    học. Với HS, CH sẽ giúp HS nhận biết vấn đề, kích thích suy nghĩ để tìm ra
    hướng giải quyết. Do vậy, một yêu cầu đặt ra trong dạy học nói chung và dạy
    học Ngữ văn nói riêng là người GV cần biết nhận ra đâu là những CH quan
    trọng, cốt lõi trong SGK và vận dụng được để có những CH đúng, trúng, giúp
    HS khám phá đúng bản chất của vấn đề. Ở phân môn văn học, một trong 3


    những yêu cầu là cần hướng dẫn HS tiếp nhận được các VB theo đặc trưng
    thể loại, do vậy, cần có những CH chứa đựng những thông tin cốt lõi liên
    quan đến nội dung bài học, hướng đến những yếu tố trọng tâm trong mỗi dạng
    bài, mỗi thể loại mà bắt buộc phải đề cập tới trong dạy học đọc hiểu VB. Tuy
    vậy, để nhận ra đâu là những CH nòng cốt trong từng kiểu loại VB, để tổ chức
    và triển khai hệ thống CH trong quá trình dạy học không phải là dễ dàng. Mặc
    dù từ giáo trình dành cho sinh viên các trường sư phạm đến các tài liệu hướng
    dẫn giảng dạy đều đã bàn về vấn đề này, nhưng trên thực tế, GV vẫn còn nhiều
    băn khoăn, lúng túng khi thiết kế và sử dụng hệ thống CH dạy học.
    1.4. Với thể loại VBNL, có một thực tế là trong quá trình dạy học phần
    lớn GV và HS chỉ chú ý đến nội dung, tập trung khai thác tư tưởng yêu nước,
    căm thù giặc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, niềm tự hào dân tộc, .Việc
    khai thác những nội dung tư tưởng sâu sắc trong các tác phẩm ấy là hoàn toàn
    đúng, nhưng nếu chỉ có thế thì chưa đủ, cần thấy đấy còn là những áng văn
    nghị luận mẫu mực, tức là cần phân tích, bình giá vẻ đẹp nghệ thuật của
    những áng văn đó. Bên cạnh đó cùng với các thể loại văn học khác, văn nghị
    luận phải được dạy với yêu cầu mới, yêu cầu đọc hiểu. Tuy nhiên các bài học
    về đọc hiểu VBNL trong SGK nhìn chung chưa có được một mô hình CH
    nhất quán nhằm hướng dẫn HS tìm hiểu bài, trong khi rất cần một số CH cốt
    yếu để định hướng cho người dạy cũng như người học biết tìm ra cái hay cái
    đẹp của văn nghị luận theo đặc trưng của thể loại này. Các CH đó phải được
    lặp đi lặp lại trong nhiều bài học mới giúp hình thành ở HS kĩ năng đọc hiểu,
    nâng cao năng lực đọc văn.
    1.5. Qua thực tế giảng dạy ở cơ sở chúng tôi nhận thấy giờ học Ngữ
    văn sẽ thành công hơn khi người GV làm chủ và tổ chức nội dung bài học qua
    hệ thống CH khoa học, hợp lí, HS chỉ thực sự phát huy tư duy khi tham gia
    nêu CH, tìm hiểu hoặc phản biện trả lời được các CH của GV thông qua các
    hoạt động học tập. Nhưng làm thế nào để xây dựng được hệ thống CH tốt, 4


    phù hợp với nội dung bài học, đặc biệt trong dạy học đọc hiểu VB theo đặc
    trưng thể loại? Đây là vấn đề nghiên sinh cứu đã trăn trở từ lâu và muốn tìm
    một giải pháp giúp GV tháo gỡ những khó khăn trong thực tiễn dạy học.
    Với mong muốn góp phần đổi mới việc dạy và học Ngữ văn, phần nào
    hiện thực hoá được những định hướng đổi mới giáo dục, căn cứ thực tiễn dạy
    học Ngữ văn ở trường trung học, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn và thực hiện
    đề tài nghiên cứu: “Mô hình câu hỏi dạy học đọc hiểu văn bản nghị luận
    trong chương trình Ngữ văn trung học”.
    2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
    2.1. Ở nước ngoài
    2.1.1. Nghiên cứu về câu hỏi dạy học đọc hiểu
    Trên thế giới, đọc hiểu là một trong bốn kĩ năng quan trọng (nghe, nói,
    đọc, viết) được đưa vào chương trình dạy học ngôn ngữ quốc gia từ Tiểu học.
    Đọc hiểu cũng là một trong ba lĩnh vực (đọc hiểu, toán và khoa học) trong
    Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) do Tổ chức hợp tác và phát
    triển kinh tế thế giới (OCED) khởi xướng bắt đầu từ năm 2000, nhằm đánh
    giá năng lực HS độ tuổi kết thúc giáo dục bắt buộc. Trong dạy học đọc hiểu
    do việc xác định đối tượng, mục tiêu, nội dung đọc hiểu của chương trình
    ngôn ngữ và văn học ở các nước khác nhau nên nội dung đọc hiểu cũng khác
    nhau. Song việc trả lời các CH đọc hiểu bao giờ cũng là một phần quan trọng
    trong bài thi đánh giá trình độ HS của các chương trình dạy học ngôn ngữ và
    văn học trên thế giới. Điều đó cho thấy CH có ý nghĩa quan trọng trong dạy
    học đọc hiểu văn bản. Nó giúp HS nhận biết, ghi nhớ các thông tin từ văn
    bản, nó là công cụ dẫn dắt HS trong quá trình nhận thức về VB. Trong cuốn
    Phương pháp dạy đọc hiểu văn bản [104,294], các tác giả coi “đặt CH” là một
    trong năm thủ thuật (thủ thuật xác định thông tin quan trọng trong bài đọc, thủ
    thuật tóm tắt thông tin, thủ thuật suy luận, thủ thuật đặt CH và thủ thuật theo
    dõi khả năng hiểu, bao gồm tự đánh giá và điều chỉnh những thủ thuật khi cần 5


    thiết) giúp hình thành và phát triển kĩ năng đọc hiểu của HS. Theo tác giả,
    “khả năng đặt CH và trả lời là rất quan trọng đối với việc hiểu bài đọc”, “hoạt
    động đặt CH không chỉ giúp cho HS suy nghĩ về những nguồn thông tin,
    không chỉ trả lời đúng sai, mà nó còn liên hệ chặt chẽ với quá trình xử lí
    thông tin, chứ không phải đơn giản là trình bày kiến thức như khi trả lời CH
    kiểm tra”, “khi HS thành thạo trong việc nêu CH họ sẽ kiểm tra và giám sát
    được chính việc học của họ” [104,294]. Các tác giả cũng nêu ra sơ đồ QARs
    (Question – Answer Relationships) để dạy cách sử dụng thủ thuật đặt CH
    giúp HS nhận biết các mối liên hệ giữa CH đặt ra với thông tin của bài đọc và
    kiến thức nền. Ở mỗi mối quan hệ này có các loại CH khác nhau như “CH
    yêu cầu người đọc sử dụng thông tin từ VB và từ kiến thức nền để hình thành
    câu trả lời, loại thứ hai là những CH chỉ dựa vào kiến thức nền để hình thành
    câu trả lời” [104,291- 293].
    Chương trình PISA cũng đánh giá sự hiểu biết phổ thông qua các Unit
    (bài thi) bao gồm phần dẫn (stimulus material) có thể trình bày dưới dạng
    chữ, bảng, biểu đồ, và sau đó là một số CH (item) được kết hợp với tài liệu
    đọc. Trong các bài thi đánh giá năng lực đọc hiểu, PISA sử dụng các kiểu CH
    sau: CH mở đòi hỏi trả lời ngắn ; CH mở đòi hỏi trả lời dài (khi chấm sẽ phải
    tách ra từng phần để cho điểm); CH đóng đòi hỏi trả lời dựa trên những trả lời
    có sẵn; CH trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn; CH Có – Không, Đúng –
    Sai phức hợp [36,8]. Các kiểu CH trên được xây dựng đảm bảo đáp ứng các
    mức độ đọc hiểu cụ thể như sau: Mức1-a: Xác định một mảng thông tin trong
    vị trí nổi bật của VB ngắn; nhắc lại một thông tin trong VB; diễn giải bằng
    cách liên kết đơn giản các thông tin lân cận nhau. Mức 1-b: Xác định vị trí
    của một hoặc nhiều mảng độc lập của thông tin để nhận biết được nội dung
    chủ yếu hoặc mục đích của tác giả về một chủ đề quen thuộc; hoặc đưa ra một
    liên kết đơn giản giữa thông tin trong VB và các kiến thức chung hàng ngày.
    Mức 2: Xác định vị trí của một hoặc nhiều hơn các mảng thông tin, có thể cần 6


    phải được suy luận và đáp ứng một số điều kiện; hiểu được các mối quan hệ
    hoặc phân tích ý nghĩa bên trong hoặc đưa ra suy luận ở mức độ thấp, so sánh,
    đối chiếu hoặc liên kết giữa các VB và kiến thức hiểu biết bên ngoài bằng
    cách rút ra thái độ kinh nghiệm của một người. Mức 3: Xác định và nhận ra
    mối quan hệ giữa một số các thông tin phải đáp ứng nhiều điều kiện. Các
    nhiệm vụ diễn giải ở mức độ này yêu cầu người đọc tích hợp nhiều phần của
    VB nhằm chỉ rõ được ý chính, hiểu mối quan hệ hoặc phân tích ý nghĩa một
    từ hoặc một cụm từ. Mức 4: Phân tích thông tin, đòi hỏi người đọc xác định
    vị trí và tổ chức những mảng thông tin đính kèm. Giải thích ý nghĩa sắc thái
    của ngôn ngữ trong một phần của VB. Sử dụng kiến thức quy chuẩn và phổ
    thông để đặt ra các giả thiết hoặc đánh giá sâu về VB. Mức 5: Phân tích thông
    tin, đòi hỏi người đọc xác định vị trí tổ chức những mảng thông tin đính kèm,
    suy luận thông tin trong VB có liên quan. Đánh giá sâu hoặc đặt ra giả thiết,
    dựa trên kiến thức chuyên ngành. Xử lí các tình huống trái với mong đợi.
    Mức 6: Thực hiện nhiều suy luận, so sánh và tương phản các nội dung một
    cách chi tiết và chính xác. Đặt ra giả thuyết hoặc đánh giá phê bình VB phức
    hợp thuộc chủ đề không quen thuộc, tính đến nhiều tiêu chí hoặc quan điểm,
    áp dụng các hiểu biết phức tạp từ VB. Chú ý tính chính xác của các phân tích
    và lưu ý các chi tiết ẩn ý trong VB [36,15]. Năm 2009, “PISA tập trung vào
    đọc hiểu để học tập hơn là học cách đọc hiểu, nên HS không được đánh giá
    theo năng lực đọc hiểu cơ bản nhất” [36,13]. Việc nghiên cứu CH đọc hiểu
    của PISA giúp chúng tôi có những định hướng tốt để xây dựng mô hình CH
    dạy học đọc hiểu VBNL dù đối tượng đọc hiểu, mục đích và phương pháp
    tiếp cận VB của người đọc theo yêu cầu PISA và chương trình Ngữ văn trung
    học ở Việt Nam vẫn có những điểm khác biệt.
    Mặc dù không có điều kiện bao quát các tài liệu nghiên cứu về CH
    đọc hiểu, nhưng qua việc xem xét một số tài liệu nêu trên đã cho thấy sự
    thống nhất trong quan điểm về ý nghĩa, tầm quan trọng của CH dạy học 7


    đọc hiểu cũng như những cách phân loại CH đọc hiểu khác nhau do mục
    tiêu, đối tượng đọc hiểu, phương pháp đọc hiểu mỗi chương trình khác
    nhau. Đây là những gợi ý ban đầu mang tính định hướng hết sức bổ ích và
    cần thiết để tham khảo đối chiếu, so sánh trong quá trình triển khai nội
    dung đề tài luận án.
    2.1.2. Nghiên cứu về mô hình câu hỏi dạy học đọc hiểu văn bản nghị luận
    Khi hướng dẫn đọc hiểu VBNL, một số SGK, SGV của nước ngoài mà
    chúng tôi khảo sát được chưa xây dựng mô hình CH, mặc dù rất chú ý đến hệ
    thống các CH. Tham khảo cấu trúc một số bài đọc hiểu phần văn nghị luận
    trong bộ SGK Literature lớp 8 [127,594-611] và lớp 10 [128,609] (Nhà xuất
    bản McDougal Littell, năm 2010) của Mỹ, chúng tôi nhận thấy hệ thống CH
    thể hiện rõ vai trò “người dẫn đường”, chỉ ra các thao tác, hoạt động HS cần
    tiến hành. Trước khi đọc có CH nêu vấn đề định hướng cho việc đọc, sau đó
    là hướng dẫn hoạt động, nêu lí thuyết và yêu cầu về kĩ năng đọc; trong khi
    đọc có chỉ dẫn và lưu ý cách đọc; sau khi đọc sử dụng các CH đọc hiểu, phân
    tích, mở rộng (nghe nói, nghiên cứu, tìm tòi), kết nối đọc và viết. Theo các
    giai đoạn của quá trình đọc hiểu, cấp độ, tính chất, yêu cầu CH khác nhau, từ
    dễ đến khó, đều hướng tới mục tiêu bài học. CH không có nhiều (trên dưới 10
    CH) cho một VBNL. Ví dụ: Đọc hiểu bài luận “Tại sao chúng ta không thể
    sống nhờ vào khoai tây chiên?” (421 chữ) gồm có 4 CH: (1) Quan điểm của
    tác giả là gì? (2) Tác giả đã cho rằng một người cần vitamin mà không thể tìm
    thấy trong khoai tây chiên. Các ví dụ nào được đưa ra để ủng hộ quan điểm
    này? (3) Tác giả đã đưa ra 3 lí do khác để ủng hộ quan điểm của mình, Diễn
    đạt lại bằng lời của bạn. (4) Tác giả đã làm gì trong đoạn cuối để nhấn mạnh
    quan điểm của mình. Để hướng dẫn HS đọc hiểu hai VBNL là “Vườn thú: Bí
    ẩn và hiện thực” (Rob Laidlaw) (1667 chữ) và “Vườn thú kết nối chúng ta với
    thế giới tự nhiên” (Micheal Hutchins) (1297 chữ), SGK nêu ra 10 CH. 8


    Các CH ở mỗi VB đọc hiểu hầu như đều tập trung vào các thành phần
    của một bài nghị luận là quan điểm, bằng chứng, lí lẽ với nghệ thuật hùng biện,
    kĩ thuật tu từ cụ thể đặc trưng cho loại văn nghị luận . Các CH ở mức độ vận
    dụng nhiều hơn CH nhận biết và ghi nhớ. Hệ thống CH tích hợp các kĩ năng
    nghe, nói, đọc, viết trong từng bài đọc hiểu. CH đặt tương ứng với các phần,
    đoạn của VB cần đọc để tìm câu trả lời cho CH ấy và được bố trí ở hai bên lề
    trái hoặc phải của VB, khác SGK Ngữ văn Việt Nam thường đặt ở sau phần
    trích dẫn VB đọc hiểu. Để hỗ trợ HS tìm câu trả lời, bên lề trang sách thường
    chỉ dẫn địa chỉ các liên kết để HS có thể tìm hiểu thêm về tác giả, hoặc thực
    hành thêm bài tập về từ vựng. Cách trình bày như vậy thể hiện rõ hệ thống CH
    là công cụ trợ giúp đắc lực cho HS trong quá trình tự học. Tương ứng với SGK,
    sách dành cho GV đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể. Chẳng hạn, khi đưa ra
    bài học về đọc hiểu văn bản không hư cấu, SGK đã nêu ra những hướng dẫn
    cho HS về đọc hiểu VBNL như sau:
    Bài nghị luận là một công trình không hư cấu ngắn gọn bàn về một vấn
    đề đơn lẻ. Một số bài nghị luận theo nghi thức (formal), ở đó người viết phát
    triển hệ thống tư tưởng của họ theo bút pháp phi ngã (impersonal manner).
    Một số bài nghị luận khác thuộc dạng thân mật (informal) như giai thoại, sự
    hài hước. Hai dạng nghị luận chung là nghị luận thuyết phục (persuasive) và
    nghị luận giải thích (expository). Trong bài nghị luận thuyết phục người viết
    cố gắng thuyết phục bạn chia sẻ niềm tin và tán thành với quan điểm hoặc
    hành động của họ. Trong khi mục đích đầu tiên của bài nghị luận giải thích
    lại là truyền đạt hoặc giảng giải thông tin.
    SGV đã đưa ra những chỉ dẫn về nội dung này như sau:
    Phải biết thật sự là HS đã hiểu sự khác nhau giữa những bài xã
    luận (editorials) và các bài nghị luận (essays). Để làm sáng rõ sự khác
    nhau đó, giới thiệu với HS một tư tưởng chẳng hạn cuộc cách mạng trong
    công nghệ thông tin. Hãy hỏi HS xem phải phát triển tư tưởng đó như thế 9


    nào trong bức thư gửi ban biên tập. Một bài nghị luận giải thích cắt
    nghĩa việc sử dụng trang web của nhà thám hiểm hàng hải khác với bức
    thư như thế nào? [113,8].
    Tham khảo SGK Văn học 9 (2006), Tập 1, của Nga (Nhà xuất bản
    “Khai sáng”, chủ biên: V.Ia. Korovina) [129], có thể thấy văn nghị luận được
    dạy xen kẽ với các trích đoạn từ các tác phẩm văn học. Khác với SGK của
    Mỹ, SGK của Nga nêu CH và bài tập ở sau phần trích dẫn VBNL và số lượng
    thường nhiều. Ví dụ, đọc hiểu bài văn nghị luận “Về tiểu thuyết Anh hùng của
    thời đại chúng ta của nhà văn Lepmontov [129,288], có 19 CH. Trong bài văn
    nghị luận bình luận về tác phẩm “Những tâm hồn chết” của Gogol, có 13 CH
    và bài tập. Bài học về nhà văn Mikhail Lermontov (SGK Văn học 10 (2012),
    tập 1, nhà xuất bản “Khai Sáng”, chủ biên: Iu. V. Lebedev) [129] giới thiệu về
    cuộc đời của nhà văn, các bình luận về các tác phẩm của Lermontov qua từng
    giai đoạn, về thơ và chất trữ tình trong các tác phẩm của ông có 22 CH dành
    cho HS chương trình cơ bản và phân ban. Khảo sát các CH này chúng tôi thấy
    cơ bản là khái quát, tổng hợp kiến thức đã học nhưng với yêu cầu tư duy và tự
    suy luận cao. Ví dụ CH 13 (SGK Văn học 10) [130,136]: Tại sao Gogol
    không hoàn thành tác phẩm "Tâm hồn chết"? Hãy đưa ra câu trả lời chi tiết
    mang tính bình luận. Có nhiều CH mở như: Bạn có đồng ý với lập luận của
    nhà nghiên cứu văn học S. Mashinsky hay không? Điều gì trong các nhận xét
    của ông là gần gũi với bạn và đặc biệt gây hứng thú cho bạn? Các CH tự
    chọn: Chuẩn bị bài mô tả so sánh bất kỳ hai nhân vật dựa trên tác phẩm văn
    chương đã đọc trong SGK. N. Đobroliubov nói những gì về nhân vật
    Pechorin? Quan điểm của V. Belinsky là gì? Bạn đồng ý với quan điểm nào?
    Các CH tích hợp nhiều kĩ năng như nói, viết và trình bày; vận dụng thực hành
    các phương thức kể, mô tả, so sánh, phân tích: Chuẩn bị một bài trình bày
    bằng miệng về môtip trữ tình của nhà văn Lermontov” hoặc "Những lời phê
    bình về cuốn tiểu thuyết “Anh hùng của thời đại chúng ta" (tùy chọn). Chuẩn 10


    bị một bài kể về một trong các chủ đề: "Văn học dân gian và hiện thực trong
    các tác phẩm của Gogol", "chủ đề về lịch sử trong các tác phẩm của Gogol",
    "Gogol và Nghệ thuật sân khấu". Viết một bài luận nhỏ về “Motip tôn giáo
    trong thơ trữ tình của Lermontov”.
    Tóm lại, hệ thống CH hướng dẫn đọc hiểu VBNL trong SGK của Mỹ và
    Nga tuy có sự khác nhau về số lượng, cách phân bố trong cấu trúc bài học
    nhưng đều thể hiện yêu cầu đọc hiểu theo đúng đặc trưng thể văn nghị luận.
    Trong đó SGK Nga đưa ra nhiều câu hỏi có độ khó cao, đòi hỏi tư duy suy luận
    của người đọc, trong khi việc chỉ dẫn HS thực hiện các bước đọc hiểu cũng như
    tích hợp đọc, nghe, nói, viết cùng các kĩ năng đọc, các chiến lược đọc và định
    hướng vận dụng vào thực tế của SGK Mỹ rõ ràng, mạch lạc, dễ sử dụng hơn.
    Điểm đáng chú ý của hệ thống CH trong SGK Mỹ là các CH thường ngắn gọn,
    số lượng ít, từ 2 đến 5 CH gắn với ba giai đoạn trong quá trình đọc, được lặp lại
    trong nhiều bài học giúp HS dễ dàng hình thành, rèn luyện kĩ năng đọc theo thể
    loại. Đặc biệt là các CH trước khi đọc thường nêu các tình huống thực tiễn gắn
    với nội dung bài đọc, nhằm chuẩn bị tâm thế cũng như kích hoạt vùng kiến
    thức có liên quan, gây được hứng thú, sự tò mò, háo hức của HS khi tiếp xúc
    với VB. Các CH kết nối đọc và viết mang tính ứng dụng thiết thực, giúp HS
    nhận ra ý nghĩa, sự cần thiết của việc đọc hiểu VB trong đời sống.
    Từ những nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy việc xây dựng một
    mô hình CH hướng dẫn HS đọc hiểu VBNL là rất cần thiết. Căn cứ vào mô
    hình này, từ soạn giả SGK đến GV đều sẽ có thể thiết kế hệ thống CH
    hướng dẫn HS đọc hiểu VB theo đặc trưng thể loại và các phương diện của
    quá trình đọc hiểu.
    2.2. Ở Việt Nam
    2.2.1. Nghiên cứu về câu hỏi dạy học đọc hiểu
    Cùng với khái niệm “dạy học đọc hiểu VB”, khái niệm “CH đọc hiểu”
    xuất hiện trong Chương trình, SGK Ngữ văn từ sau năm 2000. Tuy nhiên, 11


    chưa thấy một định nghĩa cụ thể, thống nhất về CH đọc hiểu cũng như mô
    hình CH dạy học đọc hiểu. Năm 1998, trong một bài đăng báo Văn nghệ,
    (ngày 12/2), Trần Đình Sử đã nhấn mạnh “Hiện nay các nội dung đọc đã được
    chú ý qua một số CH gợi ý hướng dẫn học bài, nhưng chưa thành hệ thống,
    chưa có CH kiểm tra sự hiểu biết của HS”. Lê Trí Viễn cho rằng mục đích CH
    phải nhằm giúp HS “học cách đọc, phép đọc để tự mình biết đọc” [71]. Sau
    này, tác giả Nguyễn Thanh Hùng tiếp tục đề xuất “cần phải xem xét một cách
    khoa học hệ thống CH đọc hiểu” và đề ra tiêu chí “phân biệt CH đọc hiểu với
    CH thông thường” đó là “đã là CH đọc hiểu thì bao giờ cũng phải sử dụng
    hình thức đọc, hay giai đoạn đọc, mức độ đọc, dạng đọc, kiểu đọc, lối đọc,
    phương pháp đọc, kĩ thuật đọc, kĩ năng đọc để tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa
    và bình giá tác phẩm văn học với mục đích khám phá giá trị đích thực của tác
    phẩm và có thể vận dụng chúng vào đời sống của HS” [71].
    Về vai trò, ý nghĩa quan trọng của CH trong dạy học Ngữ văn nói
    chung và trong dạy học đọc hiểu VB nói riêng, từ chương trình môn Văn
    trước năm 2000, CH đã được coi là chìa khóa của cải cách dạy văn (giúp HS
    tự khám phá VB, giúp định hướng GV trong giảng dạy, phân hóa HS). “Trong
    nhiều biện pháp tổ chức và định hướng hoạt động của HS, việc soạn thảo hệ
    thống CH có một vị trí đặc biệt quan trọng” [25,67] nhất là với chương trình
    cải cách sau năm 1985. Nếu như trước đây (trước năm 1985), trong giờ giảng
    văn GV chỉ hỏi khoảng bốn, năm câu, trong đó có ba câu cổ điển bất di bất
    dịch là đại ý, bố cục, tư tưởng chủ đề, thì sau năm 1985, để tổ chức cho HS
    “chiếm lĩnh tác phẩm và bộc lộ nhân cách”, CH đã nhiều hơn về số lượng và
    phong phú, đa dạng về kiểu dạng. “Có thể quy thành hai loại là CH nhằm tìm
    hiểu tác phẩm có tính chất nghiên cứu văn học và CH nhằm khơi gợi hoạt
    động tự bộc lộ và đồng sáng tạo của HS” [25,67]. Với chương trình mới sau
    năm 2000, các nhà biên soạn chương trình SGK, các nhà nghiên cứu, các nhà
    giáo vẫn tiếp tục khẳng định: CH là nòng cốt của phương pháp gợi tìm trong 12


    dạy Văn. CH như xương cốt của bài giảng [90], xây dựng được hệ thống CH
    có chất lượng là công việc khó nhất trong dạy học Ngữ văn. CH trong dạy học
    văn là một cách thức giao tiếp, một hình thức tạo mối quan hệ thầy trò, là một
    PPDH tích cực hóa hoạt động của HS, theo quan điểm thầy trò cùng học,
    cùng phát triển. CH là một trong những cách GV hướng dẫn HS tham gia một
    cách chủ động, trực tiếp vào quá trình dạy học để tìm kiếm tri thức và rèn
    luyện tư duy [71] sứ mệnh của CH trong dạy học tác phẩm văn chương
    “không phải là phần đệm cho “bài ca thuyết trình” của GV mà là một phần
    nội dung để xây dựng kiến thức, kĩ năng văn và thái độ sống cho HS. CH
    trong dạy học tác phẩm văn chương không phải là sự hỏi đáp đơn thuần hay
    sự giao tiếp đơn chiều mà là sự đối thoại đa chiều. “Yêu cầu về đọc được thể
    hiện chủ yếu qua hệ thống CH đọc – hiểu” [26,98]. Cho nên trong SGK Ngữ
    văn THCS, sau phần trích dẫn VB và Chú thích, phần nêu CH được đặt tiêu
    đề là “ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN”.
    Đặt CH là một trong các biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc, do vậy, hệ
    thống CH và bài tập trong SGK và của thầy cô là rất quan trọng trong việc
    hướng dẫn HS từng bước hiểu, cảm VB, để đi đến kết quả cuối cùng là khám
    phá được ý nghĩa tác phẩm [5]. Đặt CH là một trong những “chiến thuật đọc
    hiểu” [80,57-89-97] nhằm thông qua việc đặt CH (của cả GV, HS) và tìm
    kiếm câu trả lời, giúp các em HS trở thành một bạn đọc tích cực.
    Về yêu cầu xây dựng CH trong dạy học Ngữ văn nói chung, nhiều tài
    liệu đã đề cập đến khá chi tiết. Các bài viết trong Tạp chí [89][71][107], các
    tài liệu hướng dẫn giảng dạy [26][104], SGV đều thống nhất quan điểm: hệ
    thống CH phải đảm bảo các yêu cầu như tính khoa học (đúng, chính xác về
    nội dung – phạm vi – mức độ kiến thức, logic trong diễn đạt); tính sư phạm
    (ngôn ngữ chính xác, trong sáng, dễ hiểu, lệnh rõ ràng, vừa sức với đối tượng
    được hỏi); tính hệ thống (mỗi CH phải nằm trong một hệ thống các nhiệm vụ
    học tập, có trình tự kế tiếp nhau, liên quan đến nhau nhưng cũng có vị trí 13


    không thể thay đổi); tính hấp dẫn (sự lôi cuốn lòng ham hiểu biết, sự tập trung
    ở đối tượng được hỏi); tính đa dạng (kiểu dạng, mức độ phong phú); tính phân
    hóa; khả năng tích hợp và kết nối kiến thức của môn học.
    Về yêu cầu, nguyên tắc xây dựng CH đọc hiểu VB, tác giả Trần Đình
    Sử đưa ra các lưu ý cụ thể, như nêu CH để điều tra, phân hóa xem HS hiểu hay
    không hiểu những từ khóa, từ then chốt của VB hoặc tình tiết quan trọng của
    VB, tránh hỏi về những chỗ HS đọc mà hiểu ngay; nêu CH về những từ, những
    câu, những liên kết mà chỉ có hiểu đúng chúng thì mới hiểu được ý nghĩa của
    VB; nêu CH về các vấn đề do chỗ trống, chỗ nghĩa chưa xác định gây nên; CH
    gắn đọc hiểu với viết lại, tóm tắt, diễn giải, khái quát; hình thức trắc nghiệm
    cũng là cách để thử năng lực đọc hiểu của HS [35, 245]. Nguyễn Thanh Hùng
    [71] cho rằng CH đọc hiểu phải vừa thỏa mãn là CH tốt (nội dung ngắn gọn rõ
    ràng, chính xác và trực tiếp; có tác dụng kích thích HS; phù hợp với lứa tuổi,
    khả năng và mối quan tâm của HS; tác động vào cảm xúc thẩm mĩ của HS) vừa
    là CH dành cho đọc hiểu như một khâu đột phá, như một nội dung kiến thức
    mới và có ý nghĩa phương pháp trong dạy học Ngữ văn. Tác giả Trần Đình
    Chung [41] [42] nêu cụ thể 6 nguyên tắc thiết kế CH đọc hiểu như sau:
    nguyên tắc hòa đồng với lí luận dạy học hiện đại, nguyên tắc phù hợp với tâm
    lí học hoạt động, nguyên tắc tương ứng với đặc trưng thể loại và kiểu VB, đặc
    trưng tiếp nhận và tiếp cận đồng bộ các tác phẩm là VB nghệ thuật trong nhà
    trường, nguyên tắc lựa chọn và kết hợp các loại CH cảm thụ, phân tích VB
    nghệ thuật, nguyên tắc bám sát mục tiêu phần Văn trong mục tiêu chung của
    bài học Ngữ văn, nguyên tắc phù hợp với quan điểm thực hành và tích hợp
    của chương trình và SGK Ngữ văn mới. Các tác giả cuốn Phương pháp dạy
    học Tiếng Việt nhìn từ Tiểu học, [5, 229] cũng lưu ý về cách đặt CH hay, hiệu
    quả trong dạy đọc hiểu VB nghệ thuật cho HS Tiểu học là đặt CH bám theo
    các chi tiết nghệ thuật, đặt CH dựa vào sự tương phản hoặc khác biệt của các
    hình tượng, đặt CH với yêu cầu liên tưởng, đặt CH về các biện pháp tu từ. 14


    Về các loại CH dạy đọc hiểu, SGV Ngữ văn 6 [6] đã đưa ra hệ thống
    CH theo 3 cấp độ đọc – hiểu nhằm giúp HS chủ động tiếp cận tác phẩm theo
    hướng đọc –> suy ngẫm –> liên tưởng. “Mức thấp nhất là chỉ cần sử dụng
    những thông tin có ngay trong VB. Đó là trường hợp câu trả lời có sẵn trong
    bài, là trình độ chỉ mới biết đọc trên dòng (on the line). Mức cao hơn là buộc
    phải suy nghĩ và sử dụng những thông tin trong bài. Đó là trường hợp phải
    suy ra câu trả lời từ những đầu mối có trong VB, là trình độ đã biết đọc giữa
    các dòng (between the line). Cao hơn nữa là yêu cầu khái quát, liên hệ giữa
    những cái mà HS đã đọc với thế giới bên ngoài bài học; đó là trình độ biết
    vượt ra khỏi dòng (beyond the line) để đọc VB. Khám phá VB theo hướng ấy
    thì HS không chỉ hứng thú, hiểu sâu VB mà còn liên hệ được một cách sinh
    động tự nhiên việc học văn với những vấn đề của cuộc sống” [6,12].
    Đỗ Ngọc Thống quan niệm có 4 loại CH: 1. “Hỏi về đặc điểm thể loại
    (nhận diện đặc điểm thể loại, phân tích vai trò và tác dụng của thể loại); 2.
    Hỏi hướng vào các yếu tố của VB. (Gồm: CH đọc lướt, đọc thông; CH đọc
    sâu, cảm nhận ngôn từ (vượt rào cản ngôn ngữ). CH khái quát giá trị tác
    phẩm; 3. CH về yếu tố ngoài VB (CH về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm; CH
    về tác giả); 4. CH về vai trò của người tiếp nhận (người đọc) gồm CH khai
    thác kinh nghiệm, vốn sống, gia đình, quê hương; CH khai thác năng lực, trí
    tuệ phân hóa khác nhau của HS” [109, 137-138].
    Tác giả Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn Kĩ năng đọc hiểu Văn [74], đã
    đề xuất mô hình dạy học đọc hiểu các VB tự sự, kịch, thơ trữ tình. Trong khi
    thử nghiệm vận dụng các mô hình nói trên, tác giả đã đề cập tới CH đọc hiểu
    cùng một loạt các CH định hướng, CH khám phá, CH tự bộc lộ (hồi đáp). Tác
    giả cuốn Phương pháp dạy học tiếng Việt nhìn từ Tiểu học [5] gợi ý trong dạy
    học đọc hiểu có thể sử dụng các loại CH là CH đóng (chỉ có một cách trả lời
    duy nhất đúng) thường được sử dụng để kiểm tra việc thu nhận thông tin hoặc
    CH mở (có nhiều cách trả lời) thường được sử dụng để kích thích suy nghĩ 15


    độc lập, sáng tạo của HS, tạo cơ hội cho các em chia sẻ ý kiến cá nhân [5,230-
    231]. Tác giả Phạm Thị Thu Hương [80], dưới góc độ coi đặt CH là một trong
    các chiến thuật đọc hiểu, như chiến thuật “CH kết nối tổng hợp”, chiến thuật
    “mối quan hệ hỏi – đáp” trong đó tác giả “quy những CH và câu trả lời trong
    quá trình đọc hiểu thành bốn loại quan hệ hỏi – đáp cơ bản” là “CH tái hiện
    kiến thức, CH suy nghĩ và tìm kiếm, CH sáng tạo, CH tự bộc lộ”. Với mỗi
    loại CH trên, tác giả đề xuất cụ thể và khá thuyết phục cách thức tiến hành hỏi
    và trả lời kèm theo sơ đồ tóm tắt cùng các ví dụ minh họa. Điểm mới ở đây là
    tác giả Phạm Thị Thu Hương quan tâm tới CH mà HS tự đặt cho mình để trả
    lời hoặc đặt cho thầy cô, các bạn về VB mình đang đọc hiểu với quan niệm
    “biết đặt CH ( ) là biểu hiện rõ nét của sự tích cực, chủ động ở chủ thể nhận
    thức”, “bạn đọc tích cực nào cũng là một bạn đọc biết hỏi”. Trong khi tỉ lệ CH
    do HS tự đặt không đáng kể so với CH của GV và SGK thì ý kiến trên đây
    của tác giả là đóng góp quý, góp phần đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy
    văn. Tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân [121] nêu quan điểm “xây dựng hệ thống
    CH theo các bước đọc hiểu như: đọc lướt để cảm nhận chung về nội dung,
    phương thức biểu đạt của VB; đọc chi tiết để khai thác từ ngữ, hình ảnh, nhân
    vật, sự kiện, chi tiết, kết cấu, biện pháp nghệ thuật, nhằm tái hiện cụ thể nội
    dung và nghệ thuật của VB; đọc khái quát để nhận xét, đánh giá về ý nghĩa,
    giá trị của VB về những tâm đắc riêng của bản thân khi tiếp nhận VB”. Bài
    báo của Nguyễn Thị Hồng Nam [89], trên cơ sở các thang nhận thức của
    Bloom và tính hình tượng, tính đa nghĩa, tính truyền cảm của hình tượng nghệ
    thuật, tác giả đã đề xuất các loại CH nhằm phát triển năng lực tư duy cho HS
    như phân tích, tổng hợp, đánh giá, tưởng tượng, giúp HS thực hiện hai vai trò:
    giải mã và kiến tạo nghĩa cho VB. Đồng thời người viết cũng bàn về cách tổ
    chức cho HS tương tác với nhau trong giờ học.
    Tóm lại, từ trước tới nay trong dạy học văn, việc xây dựng CH như thế
    nào, sử dụng và phối hợp CH ra sao là vấn đề được bàn nhiều. Ở mỗi thời kì do 16


    sự thay đổi về quan niệm môn Văn, về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy
    Văn, việc thiết kế và sử dụng CH có khác nhau. Từ quan niệm dạy văn là giảng
    văn đến dạy văn là phân tích tác phẩm và đến nay quan niệm dạy văn là dạy
    đọc hiểu, hệ thống CH đã có sự thay đổi. Các tài liệu đều đã đề cập tới khái
    niệm CH dạy học đọc hiểu VB, yêu cầu, nguyên tắc xây dựng CH đọc hiểu,
    cách phân loại CH dạy học đọc hiểu nhưng đều mang tính chất “điểm xuyết”,
    tích hợp. Tuy nhiên, chưa có công trình chuyên khảo nào nghiên cứu một cách
    hệ thống, toàn diện các vấn đề lí thuyết cũng như thực hành về CH dạy học đọc
    hiểu VB, cũng như mô hình CH dạy học đọc hiểu VB. Vấn đề CH dạy học đọc
    hiểu VB nói chung và từng thể loại VB nói riêng chưa được các nhà nghiên
    cứu quan tâm xứng với tầm quan trọng của nó trong việc thực hiện đổi mới
    PPDH Ngữ văn, hình thành phát triển năng lực đọc hiểu cho HS. Điều này
    khiến cho hiệu quả của việc thiết kế, sử dụng CH dạy học đọc hiểu VB trên
    thực tiễn chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Do đó rất cần những nghiên cứu
    chuyên sâu, hệ thống và có tính lí luận về vấn đề CH đọc hiểu mới đáp ứng
    được yêu cầu của thực tiễn dạy văn đổi mới hiện nay.
    2.2.1. Nghiên cứu về câu hỏi dạy học đọc hiểu văn bản nghị luận
    Nhìn vào tiến trình lịch sử của văn nghị luận trong chương trình Ngữ văn
    Việt Nam hơn nửa thập kỉ qua, có thể thấy chúng ta đã có những thay đổi quan
    trọng về quan niệm dạy học văn, về ý nghĩa, vai trò của văn nghị luận trong
    thực hiện mục tiêu môn học. Trải qua những lần thay đổi, đến nay, văn nghị
    luận đã có được vị trí đáng kể trong chương trình và SGK môn văn. Tuy nhiên
    những tài liệu mang tính chuyên sâu về PPDH thể văn nghị luận không nhiều.
    Trước năm 2000, Chương trình, SGK Văn cải cách đã chú ý dạy văn nghị
    luận. Các cuốn sách như Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể
    (Trần Thanh Đạm, Hoàng Như Mai, Huỳnh Lý biên soạn) [54], Giảng dạy
    văn học Việt Nam (Phần cổ điển và cận đại, ở trường phổ thông cấp III) của
    Trần Thanh Đạm, Bùi Văn Nguyên, Tạ Phong Châu [55] đã đưa ra những gợi 17


    ý quí báu về giảng dạy văn nghị luận nói chung với một số yêu cầu giảng dạy
    tác phẩm nghị luận văn học như chú ý bồi dưỡng khả năng cảm thụ của HS,
    xác định kiến thức cơ bản, kết hợp rèn kĩ năng luyện khả năng làm bài văn nghị
    luận cho HS nhưng vẫn chủ yếu khai thác nội dung tư tưởng, đi sâu vào vấn
    đề VB học, chưa chú ý dạy cách đọc hiểu VB, chưa thích hợp với đối tượng
    HS ở nhà trường trung học. Cách tiếp cận vấn đề của tác giả chủ yếu vẫn từ
    góc độ lịch sử, phê bình văn học chưa phải từ góc độ lí luận dạy học. Tương tự
    như vậy, các công trình Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam (Trần
    Đình Sử) [97], Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho
    Thìn) [106], Con đường giải mã văn học trung đại (Nguyễn Đăng Na) [88] đề
    cập tới phần nào cách tiếp cận và giảng dạy một số VBNL trung đại. Có thể tìm
    thấy một số bài giảng văn nghị luận trung đại trong các cuốn Những bài giảng
    văn ở đại học [124] của Lê Trí Viễn, cuốn Giảng văn, tập một, [91] của Bùi
    Văn Nguyên, cuốn Giảng văn Văn học Việt Nam của Trần Đình Sử [98].
    Vấn đề dạy học đọc hiểu VBNL được đề cập đến ở tài liệu bồi dưỡng GV
    thực hiện chương trình SGK Ngữ văn cấp THCS, THPT [16] và một số bài báo
    như Suy nghĩ về cách dạy bài “Ý nghĩa văn chương” trong SGK Ngữ văn 7
    của Đặng Hiển, [59] “Một số vấn đề đọc - hiểu thơ văn trữ tình và tác phẩm
    văn chương nghị luận trong chương trình SGK Ngữ văn 7” của Nguyễn
    Trọng Hoàn [64]. Các tài liệu này quan tâm đến việc dạy các VBNL cụ thể
    trong chương trình, còn cách dạy đọc hiểu thể văn nghị luận như thế nào chưa
    được các tác giả khái quát thành lí luận về phương pháp.
    Vấn đề dạy học đọc hiểu VBNL được nghiên cứu toàn diện hơn trong
    cuốn Dạy học VB Ngữ văn trung học cơ sở theo đặc trưng phương thức biểu
    đạt của Trần Đình Chung [43]. Tác giả dành một chương (chương III) viết về
    dạy học VBNL. Trên cơ sở nhận diện VBNL theo phương thức biểu đạt, tác
    giả đề xuất phương hướng dạy học VBNL dân gian, dạy học VBNL trung đại 18


    và hiện đại theo yêu cầu phù hợp với đặc trưng thể loại, đáp ứng dạy học tích
    hợp và dạy học tích cực.
    Về vấn đề CH và mô hình CH dạy học đọc hiểu VBNL, cũng trong Dạy
    học VB Ngữ văn trung học cơ sở theo đặc trưng phương thức biểu đạt của Trần
    Đình Chung, tác giả đã khẳng định rằng “CH đọc – hiểu là hình thức chính trong
    dạy học VBNL trung đại” [43,424]. Tác giả nêu ví dụ CH hướng tới phát hiện
    phân tích luận điểm, luận cứ của các VBNL cụ thể mà chưa khái quát thành vấn
    đề mang tính lí luận về phương pháp nêu CH dạy học đọc hiểu loại VB này.
    Trong một tài liệu chuyên sâu khác về phương pháp dạy văn nghị luận là
    Phương pháp dạy VBNL ở trường phổ thông (Hoàng Thị Mai) [84], tác giả đã
    chỉ ra các biện pháp, cách thức dạy VBNL (tái hiện sinh động không khí lịch sử,
    thời đại, tình huống tạo nên tác phẩm; đọc, tóm tắt VBNL; phát hiện khái quát
    luận đề, luận điểm và phân tích luận đề, luận điểm; lấy ví dụ, dẫn chứng tiêu
    biểu ngoài VB để phân tích, làm sáng tỏ luận điểm; đọc – hiểu VBNL theo trình
    tự mạch nghị luận của VB; giảng bình trong giờ đọc – hiểu VBNL; liên hệ với
    thực tế; tổ chức cho HS hoạt động nhóm khi dạy học đọc – hiểu VBNL; kiểm tra
    đánh giá trong dạy học đọc – hiểu VBNL). Trong một vài cách thức, biện pháp
    trên, tác giả lưu ý đến việc nêu các CH như một biện pháp phối hợp.
    Như vậy, các tài liệu chúng tôi nghiên cứu đều thống nhất quan điểm
    phải chú ý tới đặc điểm thể loại khi giảng dạy VBNL. Trong khi hướng dẫn,
    rèn luyện kĩ năng đọc hiểu VB cho HS, nêu CH là một trong những PPDH
    không thể thiếu. Tuy nhiên do đặc thù riêng biệt, do mục đích nghiên cứu
    khác nhau, nên cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu,
    toàn diện về vấn đề CH dạy học đọc hiểu VBNL. Khái niệm mô hình CH dạy
    học đọc hiểu VBNL cũng chưa thấy đề cập đến ở các tài liệu liên quan mà
    chúng tôi tham khảo được. Đây thực sự là một khoảng trống cần được nghiên
    cứu để có thể giúp GV tháo gỡ những khó khăn trong quá trình dạy đọc văn
    theo đặc điểm thể loại của VB. 19


    3. Mục đích nghiên cứu
    Luận án nhằm hướng tới xây dựng mô hình CH dạy học đọc hiểu
    VBNL và vận dụng mô hình trong quá trình dạy học, giúp GV có định hướng
    cần thiết trong việc thiết kế các CH để hướng dẫn HS đọc hiểu VBNL một cách
    chủ động, sáng tạo, từng bước nâng cao năng lực đọc hiểu VB, góp phần thực
    hiện mục tiêu dạy Văn là dạy phương pháp đọc, để học tập suốt đời.
    4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
    4.1. Khách thể nghiên cứu
    Một trong những thành tố quan trọng của quá trình dạy học Ngữ văn chính
    là dạy học đọc hiểu. Quá trình dạy học đọc hiểu văn bản trong chương trình Ngữ
    văn trung học là khách thể nghiên cứu của luận án.
    4.2. Đối tượng nghiên cứu
    Để đạt một trong những mục tiêu quan trọng của môn học là bồi
    dưỡng tri thức văn học, văn hóa, hình thành, phát triển kĩ năng tiếp nhận
    tác phẩm văn học, thẩm bình văn chương, có nhiều vấn đề đặt ra trong
    quá trình dạy học đọc hiểu VB. Ở luận án này, chúng tôi tập trung
    nghiên cứu CH được sử dụng trong quá trình dạy học đọc hiểu VBNL.
    Đây là đối tượng nghiên cứu của luận án.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    5.1. Phương pháp hồi cứu, khảo sát tư liệu
    Phương pháp này được sử dụng trong việc thu thập nguồn tư liệu nghiên
    cứu về vấn đề dạy học đọc hiểu VB, về CH đọc hiểu và mô hình CH đọc hiểu
    VBNL để phân tích, so sánh, tổng hợp các quan điểm, luận điểm khoa học của
    các nhà nghiên cứu giáo dục, các nhà sư phạm nhằm xác lập cơ sở khoa học của
    việc xây dựng mô hình CH dạy học đọc hiểu VBNL trong chương trình Ngữ văn
    trung học.
    20


    5.2. Phương pháp chuyên gia
    Luận án sử dụng phương pháp trao đổi và xin ý kiến các chuyên gia về
    đọc hiểu, về ngôn ngữ học, logic học, giáo dục học và lí luận PPDH để xây
    dựng một số khái niệm công cụ làm căn cứ khoa học cho việc xây dựng mô
    hình CH dạy học đọc hiểu VBNL; xin ý kiến về tính khả thi của mô hình CH
    được đề xuất.
    5.3. Phương pháp phỏng vấn, điều tra, khảo sát thực tiễn
    Mục đích của phương pháp này là nhằm thu thập thông tin về thực trạng
    thiết kế, sử dụng hệ thống CH dạy học đọc hiểu VBNL trong một số trường
    trung học; khảo sát hệ thống CH dạy học đọc hiểu các VBNL trong sách giáo
    khoa Ngữ văn trung học; khảo sát tiết dạy và giáo án đọc hiểu VBNL trong
    chương trình Ngữ văn trung học của một số tổ chuyên môn. Cách thực hiện: Dự
    giờ, xây dựng phiếu hỏi, trao đổi thăm dò ý kiến của GV về việc xây dựng, sử
    dụng CH trong quá trình dạy học đọc hiểu VBNL; thăm dò hứng thú, thái độ,
    đánh giá nhận xét của HS về hệ thống CH dạy học đọc hiểu trong các tiết dạy
    học thử nghiệm.
    5.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
    Phương pháp thực nghiệm sư phạm được sử dụng để đánh giá, điều
    chỉnh và hoàn thiện mô hình CH dạy học đọc hiểu VBNL. Hình thức tiến
    hành: chọn một số trường đảm bảo tính đại diện và tiêu chí đã định trước, tiến
    hành thử nghiệm một số tiết với thiết kế bài học do GV vận dụng mô hình CH
    dạy học đọc hiểu VBNL soạn giảng; quan sát, thống kê, phân tích các số liệu,
    những thông tin thu thập được từ quá trình thực nghiệm, đưa ra các nhận xét,
    kết luận về tính khả thi và hiệu quả của mô hình CH luận án đề xuất.
    Các phương pháp trên có mối quan hệ chặt chẽ: từ khảo sát thực tiễn
    dạy học VBNL, chúng tôi phát hiện những bất cập trong dạy học đọc hiểu
    bằng hệ thống CH. Qua việc nghiên cứu lí luận chúng tôi thấy được sự lúng
    túng đó, và xin ý kiến chuyên gia để tìm ra giải pháp tháo gỡ. Bằng phương 21


    pháp thực nghiệm, chúng tôi kiểm chứng tính khả thi của mô hình CH đã đề
    xuất. Trong quá trình tìm kiếm luận cứ và tổ chức luận cứ để chứng minh giả
    thuyết khoa học, chúng tôi đã sử dụng phương pháp phỏng vấn, điều tra, khảo
    sát thực tiễn và một số phương pháp đặc thù khác như: phương pháp phân tích
    Ngữ văn, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh loại hình.
    6. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
    6.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
    - Nghiên cứu cơ sở khoa học của đề tài gồm các vấn đề lí luận về đọc
    hiểu VB, về xây dựng hệ thống CH và mô hình CH dạy học đọc hiểu.
    - Nghiên cứu vấn đề CH dạy học đọc hiểu VBNL trong chương trình,
    SGK Ngữ văn trung học ở Việt Nam; tìm hiểu một số nét về dạy học đọc hiểu
    VBNL trong chương trình, SGK một số nước trên thế giới, từ đó rút ra bài
    học kinh nghiệm trong việc đề xuất mô hình CH dạy học đọc hiểu văn bản
    VBNL trong môn Ngữ văn.
    - Đề xuất mục tiêu, nguyên tắc xây dựng các mô hình khái quát và cụ
    thể; triển khai mô hình vào việc tổ chức tiến trình dạy học, kiểm tra đánh giá
    năng lực đọc hiểu của HS và bước đầu đề xuất điều chỉnh hệ thống CH hướng
    dẫn đọc hiểu trong SGK.
    - Thử nghiệm mô hình CH trong xây dựng giáo án và tổ chức giờ dạy
    đọc hiểu một số VBNL trong chương trình Ngữ văn trung học.
    6.2. Phạm vi nghiên cứu
    Luận án không đi sâu nghiên cứu về mô hình cấu trúc CH (kết cấu hình
    thức của CH) mà tập trung nghiên cứu mô hình hệ thống CH (gọi tắt là mô
    hình CH) được sử dụng trong quá trình dạy học đọc hiểu các VB thuộc thể
    loại nghị luận. CH dạy học đọc hiểu được gọi tắt là CH đọc hiểu.
    22


    7. Giả thuyết khoa học của đề tài
    Nếu xây dựng được mô hình CH dạy học đọc hiểu VBNL thì sẽ giúp
    GV có những căn cứ và định hướng để thiết kế hệ thống CH cụ thể, đồng
    thời tổ chức tốt quá trình dạy học, nhằm hướng dẫn HS biết cách đọc hiểu
    VB theo đúng đặc trưng của thể văn này, góp phần thực hiện tốt mục tiêu
    dạy học Ngữ văn.
    8. Đóng góp mới của luận án
    8.1. Về lí luận
    - Bổ sung những vấn đề lí luận về CH dạy học đọc hiểu VB: xác định
    khái niệm mô hình CH dạy học đọc hiểu, mục tiêu, các tính chất và nguyên
    tắc xây dựng mô hình CH dạy học đọc hiểu VBNL;
    - Định hướng xây dựng mô hình CH dạy học đọc hiểu các kiểu VB
    khác, theo đặc trưng thể loại.
    8.2. Về thực tiễn
    - Một số mô hình CH dạy học đọc hiểu VBNL được đề xuất trong luận án
    định hướng cho GV cách khai thác các yếu tố cốt lõi của VBNL, từ đó giúp HS
    hiểu được cái hay cái đẹp của các VBNL và biết cách đọc loại VB này.
    - Định hướng cho GV trong việc xây dựng, triển khai hệ thống CH dạy
    học đọc hiểu các VB cụ thể trong chương trình Ngữ văn trung học, biết thiết
    kế hệ thống CH dạy học đọc hiểu những VBNL ngoài chương trình, SGK góp
    phần thực hiện tốt mục tiêu hình thành, phát triển năng lực đọc, viết cho HS.
    - Mô hình CH dạy học đọc hiểu VBNL, có thể đóng góp vào việc
    xây dựng ngân hàng CH kiểm tra đọc hiểu VB và việc biên soạn các tài
    liệu dạy học như SGK, SGV,
    9. Bố cục của luận án
    Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo,
    luận án gồm ba chương với nội dung như sau: 23


    Chương 1. Cơ sở khoa học của việc xây dựng mô hình CH dạy học đọc
    hiểu VB nghị luận trong chương trình Ngữ văn trung học
    Cơ sở khoa học của việc xây dựng mô hình CH dạy học đọc hiểu VB
    nghị luận trong chương trình Ngữ văn trung học gồm các vấn đề lí luận về
    đọc hiểu VB, về mô hình CH dạy học đọc hiểu; về thực trạng xây dựng hệ
    thống CH đọc hiểu VBNL trong dạy học Ngữ văn trung học thể hiện qua
    SGK, qua giáo án và trong giờ lên lớp của GV.
    Chương 2. Đề xuất và triển khai mô hình câu hỏi dạy học đọc hiểu văn
    bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn trung học
    Chương 2 đề xuất mục tiêu, nguyên tắc xây dựng và mô hình hệ thống
    CH dạy học đọc hiểu VBNL nói chung và mô hình CH dạy học đọc hiểu
    VBNL trung đại, VBNL văn học và VBNL xã hội hiện đại; đề xuất hướng
    vận dụng và triển khai mô hình trong việc tổ chức tiến trình dạy học đọc hiểu
    VBNL theo các bước của quá trình dạy học (trên lớp), theo yêu cầu dạy đọc
    hiểu và hình thành năng lực tự học cho HS trong đọc hiểu (ở nhà), trong đánh
    giá năng lực đọc hiểu VBNL của HS, trong biên soạn hệ thống CH hướng dẫn
    đọc hiểu VB của SGK Ngữ văn trung học.
    Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
    Việc thực nghiệm nhằm kiểm nghiệm tính khả thi của những nội dung
    được đề xuất của Chương 2. Nội dung chương bao gồm: Giới thiệu chung về
    mục đích, nội dung, phương pháp và đối tượng, địa bàn thực nghiệm; Tổ chức
    thực nghiệm dạy học và kiểm tra đánh giá; Nhận xét đánh giá về việc vận
    dụng mô hình CH dạy học đọc hiểu và điều kiện thực hiện dạy học đọc hiểu
    VBNL theo mô hình CH luận án đề xuất.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...