Thạc Sĩ Miền ý niệm sông nước trong tri nhận người Việt

Thảo luận trong 'Ngôn Ngữ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI: Miền ý niệm sông nước trong tri nhận người Việt​
    Information

    MS: LVNNH033
    SỐ TRANG: 166
    CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
    TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
    NĂM: 2010


    Information



    DẪN NHẬP

    1. Lí do chọn đề tài

    Bề mặt trái đất có gần ¾ là nước với đại dương thế giới nối kết năm châu với vô số biển
    hồ, sông suối; riêng về sông thì trung bình của mười con sông dài nhất thế giới đã gần
    6000km tạo nền văn hóa nước phủ rộng khắp toàn cầu.
    Nếu G. Lakoff và M. Johnsen đặt tiêu đề cho quyển sách về tri nhận của mình là
    “Chúng ta sống bởi ẩn dụ” (Metaphor we live by – cách dịch của người viết) để khẳng định
    vai trò của ẩn dụ trong đời sống ngôn ngữ, thì cũng có thể nói “chúng ta sống bởi nước” để
    thấy rõ tầm quan trọng to lớn bậc nhất của nước với đời sống con người và những tác động
    khác nhau mang tính vùng miền từ nó.
    “Nước” vẫn là chính nó, nhưng khi đi qua lãnh thổ mỗi quốc gia thì lại lưu những dấu
    vết địa lý khu biệt và những dấu ấn khác nhau – thậm chí rất khác biệt – trong tri nhận của
    cư dân từng địa phương. Và, dĩ nhiên, không phải mọi nền văn hóa gắn với nước đều tương
    đương nhau, đó là điều thú vị khiến chúng ta bị thu hút vào thế giới nước.
    Sở hữu hơn 3000 cây số đường bờ biển (gấp gần ba lần chiều dài đất nước) người Việt
    mang trong mình cách nhìn, cách nghĩ rất riêng, là sự dung hợp, hài hòa giữa môi trường
    sống sông nước bản chất duy cảm.
    Khảo sát 30.415 đơn vị thành ngữ, tục ngữ, ca dao tiếng Việt có 16,02% chứa các từ
    ngữ sông nước [39].
    Trong 64 tên tỉnh thành Việt Nam hiện nay thì ít nhất 25% địa danh có yếu tố sông
    nước, chưa kể đến các tên huyện, thị. Đặc biệt, điều này vẫn diễn ra ở những địa phương mà
    đa phần là đất núi như Sông Bé, Hà Bắc xưa hay Đắk Lắk, KonTum, Hà Giang ngày nay.
    Trong ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày của người Việt, dễ dàng bắt gặp những hình ảnh
    sông nước như “chìm”, “trôi”, “nổi”, “ướt át”, “lênh đênh” hay ngay cả lời ca cũng giàu
    những ẩn dụ tri nhận mang tính sông nước như “sông quê”, “suối mơ”, “sóng tình”, “có một
    dòng sông đã qua đời”
    Kì thực, sông nước đã thấm vào đáy tâm thức người Việt. Từ tri nhận, tư duy đến dấu ấn
    trong ngôn ngữ hay phản chiếu song hướng giữa “sông nước” với ngôn ngữ là một hệ quả tất
    yếu xảy ra. Dấu ấn ấy đã diễn biến ra sao và như thế nào? Đây là vấn đề thú vị chẳng những
    về mặt văn hóa mà còn rất đặc biệt đứng từ góc nhìn ngôn ngữ. Với những lý do vừa trình bày trên, chúng tôi bắt tay tìm hiểu đề tài “Miền ý niệm sông
    nước trong tri nhận người Việt” nhằm phân tích, lý giải một nét độc đáo của tư duy ngôn ngữ
    dân tộc.

    2. Lịch sử vấn đề

    “Sông nước” từ lâu không còn là vấn đề xa lạ trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như địa
    lí, kỹ thuật, kinh tế,văn hóa với tri thức nền lẫn phương tiện hữu ích là ngôn ngữ. Ở chính
    địa hạt ngôn ngữ, sông nước cũng đã là một hiện tượng được quan tâm xứng đáng. Ở góc độ
    văn hóa, tìm hiểu về sông nước đã được đề cập rộng rãi trong những bài nghiên cứu như
    “Suy nghĩ về yếu tố sông nước trong văn hóa Việt Nam” của Nguyễn Việt (Dân tộc
    học,1981, Số 4); “Sông nước trong tâm thức người Việt” của Nguyễn Thị Thu Trang (Văn
    hóa dân gian, 2006, Số 3); gần đây là luận văn thạc sĩ Văn hóa ứng xử với môi trường sông
    nước của người Việt miền Tây Nam Bộ của Nguyễn Đoàn Bảo Tuyền (2006). Ở địa hạt ngôn
    ngữ, trước đây, tìm hiểu về các từ chỉ sông nước đã được sự khảo sát bởi Trần Thị Ngọc
    Lang (1982, 1995) với việc tìm hiểu nhóm từ có liên quan đến sông nước trong phương ngữ
    Nam bộ, Nguyễn Thị Thanh Phượng (1997) với đề tài Tìm hiểu từ ngữ sông nước trong đời
    sống văn hóa Việt Nam (luận văn thạc sĩ); đặc biệt, với phần phụ lục quy mô Nguyễn Thị
    Thanh Phượng đã chứng tỏ được một cách xuất sắc sông nước là một miền rộng lớn và ưu
    thế trong tiếng Việt từ xưa đến nay.
    Với xu hướng lấy “tri nhận” tiếp cận Ngôn ngữ học, chúng tôi muốn áp dụng nó cho
    lĩnh vực “sông nước”. Nguyễn Đức Dương từng dẫn trong quyển Tìm về linh hồn tiếng Việt
    rằng “Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc”[15]; điều đó càng khẳng định vai trò của NNHTN
    (Ngôn ngữ học tri nhận) – tìm hiểu xem con người đã hiểu thế giới khách quan ra sao và ý
    niệm hóa nó như thế nào trong ngôn ngữ.
    NNHTN là một hướng nghiên cứu mới, xuất hiện và tạo nên được nhiều “cú hích” cho
    việc đào sâu khai phá trong ngôn ngữ. Cũng có thể nói, với NNHTN, ngôn ngữ chính là cứ
    liệu cho việc xem xét đường hướng tư duy con người. Từ nó sẽ cấu trúc nên được dựa vào cơ
    sở nào người ta nói như thế này hay thế khác chứ không hẳn chỉ dựa trên những quy ước võ
    đoán mà chúng ta từng quan niệm về hai mặt của ngôn ngữ.
    Ở lĩnh vực tri nhận, trong Metaphors We live by George Lakoff and Mark Johnson [70]
    đã bắt đầu quyển sách của mình bằng quan niệm khác truyền thống về ẩn dụ: Ẩn dụ không
    chỉ xuất hiện trong thơ ca, trong văn học hay ngôn ngữ mà trong cả hành động và suy nghĩ của chúng ta. Và đó chính là một trong những cách nhìn mở đầu theo hướng tri nhận về
    Ngôn ngữ học trên thế giới.
    Việt Nam đã biết đến tri nhận ở những năm cuối thế kỷ XX, tuy nhiên, đây là hướng
    nghiên cứu chỉ rộ lên trong những năm gần đây, nổi bật và tiên phong có thể kể đến Lý Toàn
    Thắng với NNHTN – Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt (2005), Trần Văn Cơ
    năm với Khảo luận ẩn dụ tri nhận (2007) và NNHTN – Ghi chép và suy nghĩ (2009), đây là
    những cuốn sách tiếng Việt cần thiết cho những ai muốn bước đầu đi vào tri nhận luận. Song
    song đó là những công trình đi sâu chi tiết vấn đề tri nhận như Võ Thị Dung với Tìm hiểu
    tiếng Việt từ góc độ NNHTN (luận văn thạc sĩ, 2003); Nguyễn Thị Tâm với Sự tri nhận
    không gian biểu hiện qua nhóm từ chỉ quan hệ vị trí trong tiếng Việt so sánh với tiếng Anh
    (luận văn thạc sĩ, 2004); Hà Thanh Hải với “Hiện tượng ẩn dụ: nhìn từ các quan điểm truyền
    thống và quan điểm tri nhận luận” (bài báo, 2007), Phan Thế Hưng với Ẩn dụ dưới góc độ
    NNHTN (luận án tiến sĩ, 2008), Nguyễn Ngọc Vũ với Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ
    tiếng Việt có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc nhìn của NNHTN (luận án tiến sĩ,
    2008); gần đây nhất có thể kể đến Nguyễn Thị Thanh Huyền với Ẩn dụ tri nhận mô hình ẩn
    dụ cấu trúc trên cứ liệu ca từ Trịnh Công Sơn (luận văn thạc sĩ, 2009) và Lê Thị Ánh Hiền
    với Ẩn dụ trong thi pháp dưới góc nhìn của G.Lakoff và M.Turner (luận văn thạc sĩ, 2009)
    Những nghiên cứu về tri nhận ngày càng phát triển cho thấy: NNHTN không còn là vấn
    đề thách đố các nhà ngôn ngữ mà ngược lại, nó mở rất nhiều cánh cửa để đi vào tri thức về
    tiếng với đa chiều đa dạng kiểu chuyên sâu khác nhau.
    Thế nhưng, cũng có thể nhận ra chưa có công trình tỉ mỉ nào như một nghiên cứu chính
    thức cho sự kết hợp “sông nước” và “tri nhận”. Chẳng hạn bài báo của Nguyễn Đức Dân –
    “Nước – một từ đặc Việt” [85] cũng đã khơi gợi những ý tưởng về “lối tư duy nước” nhưng
    không nói đến tri nhận luận hay một hướng đi khoa học nào để đào sâu về vấn đề này.
    Trên cơ sở kế thừa thành quả của những công trình nghiên cứu của những người trước
    đó, với luận văn “Miền ý niệm sông nước trong tri nhận người Việt”, chúng tôi sẽ tiếp cận
    vấn đề “sông nước” trên cơ sở của NNHTN như những bước khai phá đầu tiên đầy tính thử
    thách.

    3. Đóng góp của đề tài

    Như đã biện giải, nghiên cứu vấn đề sông nước Việt Nam dưới ánh sáng của NNHTN
    là một việc làm ý nghĩa. Chúng tôi bắt đầu việc nghiên cứu này thông qua “miền” và trên cơ sở “miền” đi vào thế giới tư duy của người Việt ở lĩnh vực “sông nước”. Đây là phương cách
    tiếp cận hiệu quả cho những phạm vi rộng lớn: Quy vào các lĩnh vực cụ thể để đào sâu tìm
    tòi vấn đề. Từ đó, luận văn này đóng góp vốn ngữ liệu từ ngữ (từ định danh, thành ngữ và
    tục ngữ) thuộc Miền ý niệm sông nước (MYNSN) trên cơ sở chính là khái quát hóa hiện
    tượng Ẩn dụ – Hoán dụ ý niệm trong tiếng Việt. Chính vì vậy, tuy khoanh vùng ở phạm vi
    sông nước nhưng những cứ liệu của chúng tôi khác lạ so với những nguồn cứ liệu đã có rải
    rác trong từ điển hoặc các công trình về “sông nước” trước đó. Luận văn cũng thống kê các
    bài hát có ca từ hàm chứa MYNSN trong âm nhạc Việt, hiển nhiên, chúng tôi chỉ sưu tầm
    cứ liệu ca từ mang tính minh họa mà không đi quá sâu để tránh sự bất lượng sức.

    4. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp sưu tập ngữ liệu

    4.1. Đối tượng nghiên cứu

    Đề tài tập trung vào đối tượng là từ vựng, thành ngữ, tục ngữ và một số ca dao, ca khúc
    Việt Nam phần lớn xoay quanh 121 ý niệm thuộc MYNSN được nêu trong mục 5.3 (chương
    một luận văn). Khảo sát của chúng tôi hướng đến MYNSN và MYN có liên quan đến sông
    nước; nhưng để tiện cho việc diễn đạt và trình bày, trong đa số trường hợp liên quan, chúng
    tôi tạm gọi ngắn gọn là MYNSN.

    4.2. Phương pháp sưu tập ngữ liệu

    Đối với từ ngữ thuộc MYNSN
    Ngữ liệu từ định danh: Chúng tôi sử dụng hai cuốn từ điển chính là Từ điển tiếng Việt
    của Hoàng Phê chủ biên [38], Từ điển đồng âm tiếng Việt của Hoàng Văn Hành – Nguyễn
    Văn Khang – Nguyễn Thị Trung Thành [21] . Bên cạnh đó, chúng tôi dùng Từ điển Anh –
    Việt của viện ngôn ngữ học [52], Từ điển Việt Anh của Đặng Chấn Liêu – Lê Khả Kế [32]
    khi chú thích, đối chiếu nghĩa tiếng Anh 121 ý niệm nói trên.
    Ngữ liệu thành – tục ngữ: Chúng tôi kế thừa có chọn lọc phần phụ lục của đề tài Tìm
    hiểu từ ngữ sông nước trong đời sống văn hóa Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Phương [39]
    song song với khảo sát các ngữ liệu qua từ điển thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt và tiếng Anh
    [28, 51].
    Đối với ca từ hàm chứa MYNSN
    Chúng tôi chọn 20 ca khúc tại trang web mp3.baamboo [82] theo tiêu chí từ nhạc dân ca
    (ba miền) đến nhạc âm hưởng dân ca và nhạc hiện đại. Để đảm bảo tính khách quan của ngữ liệu, chúng tôi lựa chọn ngẫu nhiên: tra tên bài hát và giữ lại đúng 20 ca khúc có chứa
    (không phân biệt ít nhiều) các từ ngữ thuộc MYNSN trong đó.

    5. Phương pháp nghiên cứu

    Kế thừa và phát triển: chúng tôi kế thừa các công trình nghiên cứu trước về sông nước
    và về NNHTN, từ đó định ra hướng phát triển mới cho đề tài.
    Phân tích – miêu tả: chúng tôi tập trung phân tích, miêu tả về ý niệm và ý niệm sông
    nước với 7 miền ý niệm cụ thể.
    So sánh – đối chiếu: khi phân tích các ý niệm chúng tôi có đối chiếu với tiếng Anh và
    cách tri nhận của các dân tộc khác thông qua ngôn ngữ để làm sáng tỏ vấn đề.
    Thu thập – thống kê: thông qua các từ điển khác nhau và kế thừa phần phụ lục của
    Nguyễn Thị Thanh Phượng [39] chúng tôi đã tổng hợp nên 7 MYN cơ bản với 121 ý niệm
    cơ bản thuộc MYNSN. Dựa vào đây chúng tôi sắp xếp ngữ liệu phụ lục.

    6. Ý nghĩa khoa học của đề tài

    6.1. Ý nghĩa lý thuyết

    Đề tài của chúng tôi đi vào khái chung cách tiếp cận ngôn ngữ dưới lăng kính NNHTN,
    từ đó góp phần làm phong phú những nghiên cứu về ngôn ngữ thuộc “sông nước” trong tiếng
    Việt từ góc độ MYN (Miền ý niệm). Để rồi, MYN được lưu ý thành một thuật ngữ quan
    trọng trong NNHTN và, luận văn còn hướng đến việc xây dựng các thống kê chuyên ngành
    mà cao hơn là các từ điển chuyên ngành đi sâu vào miền ý niệm sông nước (MYNSN).

    6.2. Ý nghĩa thực tiễn

    Luận văn nhấn mạnh đến kinh nghiệm sông nước nổi bật trong tư duy ngôn ngữ của
    người Việt so với các dân tộc khác và ngay trong chính hệ thống ngôn ngữ mà người Việt
    đang sử dụng. Thông qua đó, chúng tôi khẳng định MYNSN là một miền ưu thế, rộng khắp
    vượt ra khỏi lãnh vực của cư dân vùng sông nước.
    Luận văn cũng góp phần nhỏ khơi vào việc nghiên cứu ca từ dưới góc độ tri nhận luận
    với hy vọng tạo một cầu nối giữa Ngôn ngữ học và Âm nhạc học Việt Nam. Từ đấy, chúng
    ta chung sức tạo nên nền Âm nhạc Việt có những tác phẩm không những đẹp đẽ về làn điệu
    mà còn có thẩm mỹ trong ca từ.

    7. Bố cục luận văn

    Luận văn (ngoài phần dẫn nhập, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục) sẽ gồm 2 chương:

    CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

    1. Ngôn ngữ học tri nhận – một khuynh hướng hiện đại
    2. Quá trình tri nhận cơ bản trong não người
    3. Bức tranh ngôn ngữ về sông nước của người Việt
    3.1. Bức tranh ngôn ngữ về ý niệm nước
    3.2. Bức tranh ngôn ngữ về ý niệm sông
    3.3 Bức tranh ngôn ngữ với ý niệm sông nước
    4. Miền ý niệm sông nước trong tiếng Việt
    5. Tiểu kết

    CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI – MÔ TẢ MIỀN Ý NIỆM SÔNG NƯỚC VÀ MIỀN Ý NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN SÔNG NƯỚC

    1. Định danh thuộc miền ý niệm sông nước trong từ vựng tiếng Việt
    2. Ẩn dụ và hoán dụ tri nhận về miền ý niệm sông nước trong hoạt động ngôn ngữ của người Việt
    3. Miền ý niệm sông nước trong ca từ tiếng Việt
    4. Tiểu kết
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...