Công dụng: Hiện nay mạy sang chủ yếu được dùng trong xây dựng nhà cửa, làm các đồ gia dụng thông thường. Thân cũng có thể dùng làm nguyên liệu giấy sợi. Theo tài liệu của Bộ Công Nghiệp nhẹ cho thấy thân mạy sang 2-3 tuổi có tỷ lệ xenlulô 17,41% trọng lượng; sợi dài trung bình 2,99mm; rộng 15,68àm, chiều dày vách 6,5àm. Tỷ lệ chiều dài trên chiều rộng là 199,7. Theo tài liệu của Dransfield. 1995; ở độ ẩm 102,5%; thân tre mạy sang tươi có tỷ trọng 551kg/m3; thân tre khô có tỷ trọng 664kg/m3 (ở độ ẩm 7,2%). Trọng lượng trung bình của măng tươi là 1,16kg và phần ăn được thường khoảng 40%; sau khi luộc, măng có màu trắng - vàng nhạt và trở nên mềm. Hình thái: Thân ngầm dạng củ, thân tre mọc cụm cao 13-15cm, cá biệt đến 20m, ngọn hơi cong; đường kính trung bình 7-12m, cá biệt đến 20cm. Thân non có phủ lớp phấn trắng, lúc già ngả màu xanh vàng, đôi khi có sọc vàng ở các lóng gốc. Lóng dài 20-45cm, vách dày 6-8mm; vòng mo thanh nhỏ, hơi bị lệch, vòng rễ không rõ, đốt thân lặn; rễ khí sinh kém phát triển. Thân phân cành ở 1/3 phía gốc, cành mọc hơi chếch; mỗi đốt thường 3-5 cành. Cành chính dài 1,5-2m. Càng xuống thấp cành càng ngắn và thưa. Các cành phía trên hơi rủ. Mo thân mỏng, sớm rụng, màu phớt hồng hoặc phớt xanh; bẹ mo hơi loe rộng về phía gốc, đỉnh thường lại, mặt lưng có lông màu nâu, mặt bụng nhẵn; đầu bẹ mo thường rộng hơn gốc lá mo. Lá mo hình ngọn giáo hơi lệch, lật ra phía sau. Gốc lá mo tròn, có lông phía trong. Tai mo men theo bẹ mo, cao chừng 3mm, chun lại và hơi gợn sóng, đỉnh có lông mi. Thìa lìa cao 9mm, đỉnh hơi xẻ. Lá hình ngọn giáo thuôn, gốc tròn hay hình tim, đầu nhọn, dài 1 0-15cm, rộng 1-1,5cm, lưng bạc; gân 6 đôi, nổi rõ ở mặt dưới, cuống lá 11mm, tai nhỏ có 4-5 lông mi.