Chuyên Đề Lý thuyết trò chơi và ứng dụng trong kinh doanh

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Lý thuyết trò chơi và ứng dụng trong kinh doanh
    Lời giới thiệu
    “Game theory is hot,” The Wall Stress Journal nhận định vào năm 1994, khi
    giải Nobel kinh tế được tặng cho 3 học giả hàng đầu thuộc lĩnh vực này. Vào
    thời điểm đó, ứng dụng của lý thuyết trò chơi trong thực tế ở Mỹ đạt tới quy
    mô lớn chưa từng thấy. Hàng tỷ dollars giá trị bán công nghệ truyền sóng
    (spectrum lisences) của chính phủ Mỹ được thực hiện, nhờ vào những
    phương thức đấu thầu, được thiết kế bởi các lý thuyết gia về trò chơi. Ngay
    lập tức, mọi phương tiện thông tin đại chúng ở Mỹ và Châu Âu đưa tin về sự
    kiện này. Tờ New York Time gọi đó là “cuộc đấu thầu lớn nhất trong lịch
    sử”. Tạp chí Economist nhấn mạnh thêm, “đối với các doanh nghiệp muốn
    chạm tay vào dải băng sóng (airwaves), cách đặt cược tốt nhất là đi tìm và
    thuê cho mình một chuyên gia giỏi về lý thuyết trò chơi.”
    Ngày nay, lý thuyết trò chơi được ứng dụng rộng khắp, từ việc lập chiến
    lược đàm phán, cho đến chiến lược cạnh tranh, quảng cáo, sàng lọc khách
    hàng; và thiết lập các thể chế thúc đẩy sự phối hợp sức mạnh thị trường giữa
    các doanh nghiệp. Những nghiên cứu vận dụng lý thuyết trò chơi trong các
    lĩnh vực này đã đưa lại giải Nobel cho 3 nhà kinh tế học hàng đầu là Akelof
    về phân tích sự hoạt động của thị trường hàng kém chất lượng (lemons
    market); Spence về việc đánh tín hiệu chất lượng hàng hóa cho người tiêu
    dùng (signaling); và Stiglitz, học giả rất quen thuộc với người Việt nam, về
    vấn đề sàng lọc đối tác (screening).
    Gần đây nhất, một lần nữa, hai học giả Mỹ, Robert Aumamn và Thomas
    Schelling, lại đọat giải Nobel kinh tế 2005 về nghiên cứu của họ trong lý
    thuyết trò chơi và những ứng dụng của nó. Nghiên cứu của các ông tập
    trung vào việc lý giải sự hình thành các thể chế kinh tế và xã hội nhằm phối
    hợp hành vi của các bên trong những tương tác có tính chiến lược. Tức là
    những tình huống mà mỗi bên đều tìm cách “gây ảnh hưởng, dự đóan, và
    thích ứng với những chiến lược hay cách thức ứng xử mà các đối tác khác đã
    làm, hoặc dự định làm.”
    Một tương tác tiêu biểu là đàm phán về giá cả giữa người mua và người
    bán. Mỗi bên đều tìm cách đoán xem bên kia sẽ chấp nhận đề đạt gì từ phía
    mình. Khi những dự đoán của họ trùng hợp nhau thì thỏa thuận được thực
    hiện. Theo thuật ngữ của lý thuyết trò chơi, họ đạt đến trạng thái cân bằng -
    mỗi bên đã hành động phù hợp nhất với dự đoán của mình về điều mà bên
    kia mong đợi và những dự đoán đó là đúng.
    Vấn đề đặt ra trong nghiên cứu của họ là điều gì khiến cho dự đoán của các
    bên về hành vi của bên kia trùng hợp nhau. Nói khác đi, trong rất nhiều
    những khả năng có thể xảy ra, tại sao một kết cục cụ thể lại được cả hai bên
    đàm phán cùng lựa chọn. Thomas Schelling làm cho câu hỏi ấy trở nên nổi
    tiếng trong cuốn sách Strategy of Conflict. Để hiểu lý thuyết của ông, chúng
    ta bắt đầu bằng những ví dụ đơn giản. Chẳng hạn, bạn nên đi bên lề đường
    nào? Câu trả lời xem ra có vẻ dễ dàng. Vì mọi người đều đi bên phải, nên tôi
    cũng sẽ làm như vậy. Cũng hệt như thế, đi lề đường bên trái là đúng, nếu
    như bạn đang ở Anh, Úc, hoặc Nhật Bản. Như vậy, cuộc chơi có hai trạng
    thái cân bằng. Và chẳng ai nói cho chúng ta biết tại sao việc đi lề bên phải
    lại được chọn so với bên trái hoặc ngược lại. Khi mà cuộc chơi có nhiều
    trạng thái cân bằng như vậy, những người tham dự cuộc chơi phải có cùng
    chung một cách hiểu là cân bằng nào sẽ được lựa chọn. Trong ví dụ vừa nêu,
    luật đi đường tại mỗi quốc gia hướng đích cho chúng ta. Nhưng khi một đám
    bạn rủ nhau đi uống cà phê, chưa ai kịp nói cho ai sẽ dừng lại ở quán nào.
    Một trong số họ bị kẹt xe ở dọc đường và bị bỏ lại phía sau. Mobile phone
    thì vừa bị hết pin. Nơi nào anh ta nên đến để gặp lại bạn bè? Dĩ nhiên là
    chẳng có câu trả lời nào phù hợp hơn ngoài việc chọn cái địa điểm mà cả
    nhóm hay giao lưu nhất. Ở đây, thông lệ của nhóm giúp anh ta lời giải đáp.
    Chủ đề chung ở đây là thể chế, luật lệ nhà nước hoặc thông lệ xã hội, đóng
    vai trò cơ bản trong việc phối hợp kỳ vọng và định hướng hành vi của các
    tác nhân trong một nhóm, một tổ chức, hay một quốc gia. Bây giờ hãy xem
    thử thể chế, pháp định hoặc thông lệ, tác động thế nào đến đàm phán giá
    giữa bên mua và bên bán.
    Ai cũng biết rằng, bên nào có quyền lực đàm phán lớn hơn, thì có thể đòi
    hỏi lợi ích cao hơn từ thương mại. Ví dụ, Oracle là một thương hiệu lớn
    trong dịch vụ bảo hành máy tính. Vì vậy, nó có thể đòi giá cao hơn đối thủ
    cạnh tranh mà không sợ mất tất cả khách hàng trung thành. Dẫu sao đi nữa,
    trong các cuộc đàm phán như vậy, thường có vô số những thỏa thuận giá mà
    nó có thể đem lại lợi ích cho cả bên mua và bán. Như đã nêu, thỏa thuận đạt
    được khi kỳ vọng của các bên về điều mà bên kia chấp thuận là trùng hợp
    nhau. Dĩ nhiên, chẳng ai có thể nói trước được kết cục nào sẽ được lựa chọn.
    Tuy nhiên, bối cảnh của cuộc đàm phán đôi khi lại cho phép làm sáng rõ
    một kết cục cụ thể, nhờ đó, kỳ vọng của các bên được trùng hợp nhau.
    Thomas Schelling gọi đó là điểm tụ (focal point). Nó được soi sáng bởi tiền
    lệ (“chúng tôi làm như vậy vì nó thường xuyên được làm theo cách đấy”);
    hoặc bởi vì sự công bằng hay tính đối xứng (chia lợi ích thương mại theo tỷ
    lệ 50:50); hoặc thông qua người môi giới sốt sắng.
    Như đã nêu, tiền lệ thường làm nổi bật lên điểm tụ, mà nhờ đó, kỳ vọng của
    các bên trùng hợp nhau.Tiền lệ hướng đích kỳ vọng; đến lượt nó, kỳ vọng
    định hướng hành động, để rồi lại trở thành tiền lệ, và cứ tiếp tục. Thomas
    Schelling gọi đó là quá trình lập nên những hình mẫu hay tập tục (pattern).
    Động thái xã hội khiến cho quan hệ xã hội thường bị giao động (tipping)
    giữa các mẫu hình khác nhau, trước khi một thông tục nổi lên như một thể
    chế phối hợp kỳ vọng và cưỡng chế hành vi. Sau này, Peyton Young phát
    triển quan sát đó lên thành một khái niệm cơ bản của trò chơi tiến triển
    (evolutionary game). Theo đó, trạng thái cân bằng, hay thể chế hướng đích
    kỳ vọng của các cá nhân, được xác định dần qua những thử nghiệm phối hợp
    của hàng trăm hay hàng triệu người, tương tác nhau trong các bối cảnh
    tương tự.
    Để minh họa, hãy xét ví dụ sau. Giả sử từng cặp cá nhân gặp và làm việc
    với nhau để sản xuất ra sản phẩm hay dịch vụ. Họ có thể chăm chỉ hoặc lười
    biếng. Lợi ích sẽ lớn nhất nếu cả hai cùng chăm. Vì vậy, nếu mỗi bên nghĩ
    rằng đối tác của mình sẽ làm việc chăm chỉ, thì họ cũng sẽ chăm chỉ. Dĩ
    nhiên, nếu rất nhiều người xung quanh họ làm việc cật lực, thì kỳ vọng của
    mỗi bên vào ý thức làm việc tốt của bên kia sẽ tăng lên. Khi có hơn 70 %
    các trường hợp quan sát được là chăm chỉ, thì từng cá nhân thấy tự mình
    phải tuân theo chuẩn mực đó. Do đó, chuẩn mực làm việc chung cho tất cả
    là chăm. Ngược lại, nếu từng người thấy hơn 30 % trường hợp người mình
    gặp là lười biếng, thì họ cũng sẽ chẳng bõ công để làm cho người khác
    hưởng làm gì. Xã hội thu nhỏ của họ, do vậy, có xu hướng bị đẩy dần
    (tipping) sang trạng thái ai cũng lười. Trong động thái ấy, nếu ai cũng được
    để tự do a dua theo người xung quanh, thì xã hội có xu hướng sẽ chấp nhận
    lười biếng như một thông lệ chung.
    Vấn đề là cho dù xuất phát điểm tất cả đều rất chăm chỉ. Nhưng sẽ luôn có
    một số người, do bệnh tật, mệt mỏi, trở nên chểnh mảng. Nếu ai đó ngẫu
    nhiên tiếp xúc với họ quá nhiều, anh ta có thể tin là đa số mọi người đều
    lười. Do vậy, anh ta cũng lười. Nhưng hành vi của anh ta bị người khác lưu
    tâm, làm thúc đẩy hơn nữa cái ý tưởng là ai cũng lười. Lười biếng lan rộng
    như một thứ dịch. Dĩ nhiên là xã hội thu nhỏ đó cũng có thể chuyển dịch
    theo hướng ngược lại. Tuy nhiên, điều đó là khó hơn nhiều, vì phải có đến
    70 % trường hợp chăm để “hích” (tipping) xã hội của họ từ thông lệ lười
    sang chăm. Trong khi đó, chỉ cần có 30 % người lười để đẩy xã hội rơi trở
    lại thông lệ lười.
    Trong các tổ chức và doanh nghiệp, rất nhiều chính sách đưa ra để ngăn
    chặn sự a dua, lây lan của tính lười biếng. Ở Nhật Bản, việc nhóm lao động
    kiểm tra lẫn nhau (peer monitoring), cho phép cô lập và trừng phạt những kẻ
    cố tình lười nhác. Tiền lương ở hầu hết các quốc gia phát triển dựa trên tính
    hiệu quả (efficiency wage). Tiền lương được trả cao cho những nỗ lực đem
    lại thành quả cao; và rủi ro không gia hạn hợp đồng lao động được dùng như
    một thứ răn đe chống lại sự lười biếng, vô trách nhiệm. Các chính sách phúc
    lợi như phụ nữ nghỉ đẻ vẫn được huởng lương; thể thao giả trí cho tập thể
    người làm sau những ngày làm việc căng thẳng, vân vân, giúp làm giảm rủi
    ro sức khỏe gây nên chểnh mảng. Như đã thấy, xã hội có vô vàn những
    phương thức để tránh cho nó bị đẩy vào trạng thái lãng công. Cũng như vậy,
    xã hội có thể kiểm soát được các vấn đề khác như quan liêu, tham nhũng,
    nếu như tìm cách hiểu rõ cơ chế lan truyền (tipping) của chúng. Việc hiểu
    động thái lây lan của các vấn đề xã hội là chìa khoá duy nhất để ngăn chặn
    và kiềm chế những tệ nạn đó.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...