Thạc Sĩ Lý thuyết trò chơi trong cuộc chạy đua giữa các công ty viễn thông trên thị trường Việt Nam trong qu

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 24/6/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Khóa luận tốt nghiệp: “Lý thuyết trò chơi” trong cuộc chạy đua giữa các công ty viễn thông trên thị trường Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

    TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG --------***-------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP [ơ Đề tài: “LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI” TRONG CUỘC CHẠY ĐUA GIỮA CÁC CÔNG TY VIỄN THÔNG TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Sinh viên thực hiện : NGÔ TRUNG THÀNH Lớp : NHẬT 1 Khóa : K41B - KTNT Giáo viên hướng dẫn : ThS. NGUYỄN THỊ TƯỜNG ANH Hà Nội, 11 - 2006
    MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU . 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH VÀ “LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI” 4 I. Một số vấn đề lý luận chung về thị trường cạnh tranh 4 1. Khái niệm thị trường cạnh tranh 4 2. Bản chất của sự cạnh tranh 5 3. Đường cầu thị trường và đường cầu của doanh nghiệp 6 4. Gia nhập thị trường và những rào cản gia nhập thị trường . 7 II. Những vấn đề lý luận liên quan đến “Lý thuyết trò chơi” . 8 1. Lịch sử của “Lý thuyết trò chơi” . 8 2. Khái niệm về “Lý thuyết trò chơi” . 11 3. Khái niệm về “Mạng giá trị” trong “Lý thuyết trò chơi” 12 3.1 Đối thủ cạnh tranh và người bổ trợ . 13 3.2 Khách hàng và nhà cung cấp 14 3.3 Tính đối xứng của “Mạng giá trị” 14 4. Các yếu tố cơ bản trong “Mạng giá trị” 15 4.1 Người chơi (Players) 15 4.2 Giá trị gia tăng của người chơi (Added value) 18 4.3 Các qui tắc của trò chơi (Rules) . 19 4.4 Các chiến thuật trong trò chơi (Tactics) . 20 4.5 Phạm vi của trò chơi (Scope) 21 III. Vai trò của việc sử dụng “Lý thuyết trò chơi” đối với các doanh nghiệp trong thị trường cạnh tranh . 23
    CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM VÀ SỰ CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NGÀNH . 26 I. Sự phát triển của thị trường viễn thông Việt Nam . 26 1. Sự phát triển của thị trường viễn thông trong bối cảnh các doanh nghiệp cạnh tranh quyết liệt . 26 1.1 Nhu cầu của thị trường . 26 1.2 Sự gia tăng của các nhà cung cấp trên thị trường . 28 2. Những yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của thị trường 30 3. Những thách thức đối với thị trường viễn thông Việt Nam trong quá trình hội nhập . 31 II. Sự phát triển của tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT) . 33 1. Những thông tin chung về VNPT . 33 2. Sự phát triển của VNPT . 37 III. Sự thành lập và phát triển của Tổng công ty viễn thông Quân đội (Viettel) 39 1. Những thông tin chung về Viettel 39 2. Sự phát triển của Viettel . 40 IV. Sự cạnh tranh giữa Viettel và VNPT trên thị trường viễn thông Việt Nam . 42 1. Những lợi thế của VNPT trong cuộc đua với Viettel 42 1.1 Lợi thế của người đi trước 42 1.2 Thị phần chi phối trên thị trường 44 1.3 Lợi thế trong việc quản lý đường trục viễn thông quốc gia 44 2. Cuộc chạy đua giữa Viettel và VNPT dưới góc độ của “Lý thuyết trò chơi”46 2.1 Viettel trở thành người chơi mới trên thị trường viễn thông 46 2.2 Sự thay đổi giá trị gia tăng của VNPT trên thị trường . 50 2.3 Cuộc đua về giá cước: thay đổi các qui tắc của trò chơi . 51 2.4 Chiến thuật trong cuộc cạnh tranh giữa Viettel và VNPT . 56 2.4.1 Cuộc đua về các chiến dịch quảng cáo, khuyến mãi . 56 2.4.2 Những tranh cãi về việc phát triển hạ tầng viễn thông . 60 2.4.3 Chất lượng của dịch vụ viễn thông . 65
    2.5 Sự cạnh tranh trên dịch vụ điện thoại cố định . 68 CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG, VÀ CHIẾN LƯỢC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VIỄN THÔNG ĐỂ CÙNG PHÁT TRIỂN . 71 I. Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước đối với sự phát triển của thị trường viễn thông . 71 1. Quản lý, điều tiết những vấn đề cạnh tranh trên thị trường . 71 2. Sự cần thiết của việc ra đời một cơ quan quản lý đường trục 73 II. Áp dụng “Lý thuyết trò chơi” trong việc xây dựng chiến lược cho các doanh nghiệp trên thị trường 75 1. Chiến lược về người chơi . 75 1.1 Vai trò của người chơi mới trên thị trường 75 1.2 Đưa thêm người chơi vào cuộc . 77 2. Chiến lược về giá trị gia tăng . 79 2.1 Sự đánh đổi . 79 2.2 Giá trị gia tăng của quan hệ . 81 2.2.1 Tạo dựng lòng trung thành của khách hàng . 81 2.2.2 Thay đổi giá trị gia tăng . 83 3. Những nguyên tắc trong cuộc chơi . 84 3.1 Thay đổi những nguyên tắc trong cuộc chơi 84 4. Chiến thuật trong cuộc chơi . 87 4.1 Khuấy lên màn sương mù 87 5. Phạm vi của cuộc chơi . 88 5.1 Nhìn nhận cuộc chơi dưới phạm vi lớn hơn . 88 KẾT LUẬN . 90
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. A.M Brandenburger & B.J Nalebuff, Business – Game Theory – Using Game theory to shape strategy, Havard Review 1995 2. Bierman H.S. & Fernandez L., Game Theory with Economic Applications, Reading: Addison – Wesley, 2nd ed., 1998. 3. Dixit A., and Skeath S., Games of Strategy, New York: Norton, 1999 4. Gardner R., Games for Business and Economics, New York: Wiley, 2nd ed., 2003 5. Ghemawat P., Games Businesses Play: Case and Models, Cambridge: MIT Press, 1997. 6. Gintis H., Game Theory Evolving: A Problem – Centered Introduction to Modeling Strategic Interaction, Princeton: P.U.P ., 2000 7. Rasmusen E., Games and Information: An introduction to Game Theory, Oxford: B.Blackwell, 3rd ed., 2001 8. Watson J., Strategy: An introduction to Game Theory, New York: Norton, 2002. 9. A.M Brandenburger và B.J Nalebuff, Tranh hợp hay lý thuyết trò chơi trong kinh doanh, Nhà xuất bản thống kê 2004. 10. PGS.TS. Nguyễn Khắc Minh – TS. Vũ Hoàng Ngân, Trò chơi: Lý thuyết và ứng dụng, Nhà xuất bản thống kê 2004. 11. Tạp chí thông tin kinh tế số 16/2004, trang 6-7, Thị trường viễn thông: cuộc chạy đua thay đổi giá mới. 12. Các website: Lý thuyết trò chơi và thông tin http://econwpa.wustl.edu/months/game Lý thuyết trò chơi – Wikipedia, từ điển bách khoa toàn thư http://en.wikipedia.org/wiki/Game_theory Ngụ ngôn hai người tù
    http://pespmc1.vub.ac.be/PRISDIL.html Lịch sử lý thuyết trò chơi http://www.william-king.drexel.edu/top/class/histf.html 13. Website Việt Nam Thời báo kinh tế Việt Nam: http://www.vneconomy.com.vn Tin nhanh Việt Nam: http://vnexpress.net Báo điện tử Việt Nam Net: http://www.vnn.vn Trang web của VNPT: http://www.vnpt.com.vn Trang web của Vinaphone: http://www.vinaphone.com.vn Trang web của Mobifone: http://www.mobifone.com.vn Trang web của Viettel: http://www.viettel.com.vn Báo điện tử PC World: http://www.pcworld.com.vn
    LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quan điểm “Thương trường là chiến trường” từ lâu đã hình thành trong suy nghĩ của những người kinh doanh. Và ngay đến bây giờ còn có không ít nhà kinh doanh vẫn mang trong đầu quan điểm đó. Họ cho rằng trong cạnh tranh bạn cần phải tỏ ra khôn ngoan hơn đối thủ, giành giật quyết liệt thị phần, khuyếch trương thương hiệu hàng hoá, khống chế nhà cung cấp, và khoá chặt khách hàng Theo quan điểm đó, sẽ luôn luôn có người thắng và kẻ bại trong kinh doanh. Tuy nhiên, ngày nay có một hệ tư tưởng mới cho rằng “kinh doanh là sự kết hợp giữa cạnh tranh và hợp tác”. Theo đó, “kinh doanh là sự hợp tác khi cần tạo ra chiếc bánh nhưng sẽ là cạnh tranh khi đến lúc phải chia phần chiếc bánh đó”. Nếu như với cách suy nghĩ cũ, có thể dẫn tới một cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các đối thủ trên thị trường. Và nếu như việc đánh nhau đó làm hỏng chiếc bánh thị trường thì bạn cũng sẽ chẳng còn gì để chiếm lấy nữa. Đó là tình huống “cùng thua” (lose – lose). Hoặc bạn cố gắng để tạo ra chiếc bánh mà kết cục lại không chiếm được phần nào trong đó thì đó lại là tình huống “lose – win”. Nhưng với “Lý thuyết trò chơi”, bạn sẽ có cách tiếp cận hoàn toàn mới. Thông qua lý thuyết này, chúng ta có thể xem xét các yếu tố cạnh tranh và hợp tác để đưa đến quyết định là lựa chọn chiến lược “thắng – thua” (win – lose) hay “thắng – thắng”(win – win). Có thể nói “Lý thuyết trò chơi” có khả năng làm biến chuyển hoàn toàn cách suy nghĩ của mọi người về kinh doanh từ trước tới nay. Càng ngày người ta càng công nhận rằng lý thuyết trò chơi là một công cụ rất cần thiết để có thể hiểu được thế giới kinh doanh hiện đại. Lý thuyết trò chơi tập trung vào vấn đề gây nhiều khó khăn nhất: đó là xây dựng các chiến lược đúng đắn và ra các quyết định đúng đắn. Nó đặc biệt hiệu quả trong trường hợp có nhiều yếu tố liên hệ tương tác qua lại lẫn nhau và không một quyết định nào có thể được đưa ra một cách hoàn toàn độc lập với các quyết định khác. Ngày nay tại nhiều trường đại học về kinh tế ở nhiều nước thế giới, môn học “Lý thuyết trò chơi” đã được đưa vào giảng dạy như một môn học quan trọng trong chương trình đào tạo. Ngoài ra, cũng có rất nhiều nhà kinh tế đã sử dụng “Lý thuyết trò chơi” 1
    trong những nghiên cứu của mình về những cuộc cạnh tranh, những sự kiện lớn trên thương trường Liên hệ với thực tế tại Việt Nam, trong thời gian vừa qua cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường viễn thông diễn ra hết sức khốc liệt giữa 2 đối thủ chính là VNPT và Viettel. Vậy những chiến lược, những quyết định trong cuộc canh tranh này đã được đưa ra như thế nào ? thắng thua đã thuộc về ai ? Các doanh nghiệp này nên làm gì để có thể cạnh tranh hiệu quả hơn ? Để trả lời cho những câu hỏi đó, người viết đã lựa chọn đề tài “Lý thuyết trò chơi trong cuộc đua giữa các công ty viễn thông trên thị trường Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”. Người viết hy vọng thông qua “Lý thuyết trò chơi” có thể phần nào phân tích sâu hơn về cuộc cạnh tranh giữa 2 doanh nghiệp viễn thông này, và trên cơ sở đó đưa ra những gợi ý về chiến lược trong tương lai. 2. Mục đích nghiên cứu. Tìm hiểu những nét khái quát về Lý thu‎ ết trò chơi, về quá trình hình thành và phát y triển, những nội dung cơ bản của lý thuyết, và ứng dụng của nó vào thực tiễn kinh doanh trên cơ sở xem xét những yếu tố cạnh tranh và hợp tác. Qua đó, sử dụng “Lý thuyết trò chơi” làm cơ sở lý luận để phân tích cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành viễn thông Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở đó, đưa ra những đề xuất, giải pháp đối với các doanh nghiệp nhằm làm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng như tăng năng lực cạnht tranh của doanh nghiệp trên thị trường. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là những chiến lược của các doanh nghiệp viễn thông trong cuộc chiến cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường. Nhưng trong khuôn khổ có hạn của một bài khoá luận, người viết xin được tập trung phân tích cuộc cạnh tranh giữa 2 đối thủ chính trên thị trường viễn thông hiện nay là Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT) và Tổng công ty viễn thông Quân đội (Viettel). Đồng thời, người viết cũng tập trung vào việc phân tích cuộc cạnh tranh giữa Viettel và VNPT trên thị trường dịch vụ điện thoại di động. 4. Phương pháp nghiên cứu. 2
    Phương pháp nghiên cứu sử dụng cho đề tài bao gồm phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp lý thuyết với thực tiễn. Đồng thời, để cung cấp thông tin được chính xác, cập nhật, đề tài có sử dụng một số sách, đề tài nghiên cứu về các vấn đề có liên quan, các tạp chí và thông tin trên Internet. 5. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của đề tài gồm 3 chương: Chương I: Những lý luận chung về thị trường cạnh tranh và “Lý thuyết trò chơi” Chương II: Thực trạng thị trường viễn thông Việt Nam và sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành Chương III: Định hướng và một số đề xuất để phát triển thị trường viễn thông, và chiến lược đối với các doanh nghiệp viễn thông để cùng phát trỉển Cuối cùng, em xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo, thạc sỹ Nguyễn Thị Tường Anh, người đã tận tình trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành khoá luận tốt nghiệp. Hà Nội, ngày 4/11/2006 Sinh viên Ngô Trung Thành 3
    CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH VÀ “LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI” I. Một số vấn đề lý luận chung về thị trường cạnh tranh 1. Khái niệm thị trường cạnh tranh Hàng ngày có hàng triệu doanh nghiệp và cá nhân tham gia vào việc sản xuất, mua và bán những hàng hóa và dịch vụ cụ thể. Những người tiêu dùng cá nhân tham gia vào thị trường hàng hóa để mua sắm những sản phẩm và dịch vụ mà họ mong muốn, tìm kiếm những lợi ích của sản phẩm một cách nhiều nhất mà họ có thể, và ở mức giá thấp nhất có thể. Trong khi đó, những nhà sản xuất tham gia vào thị trường với suy nghĩ làm sao có thể tối đa hóa lợi nhuận, và vì vậy họ luôn đón chào những cơ hội có thể bán được nhiều hàng hóa nhất có thể, và ở mức giá cao nhất có thể. Với những cái nhìn về lợi ích khác nhau như vậy, thì liệu kết quả cuối cùng sẽ là gì ? Giá cả của hàng hóa sẽ được quyết định như thế nào, và bao nhiêu sản phẩm sẽ được sản xuất và bán ra thị trường ? Quyền lợi của người tiêu dùng sẽ chiếm ưu thế, hay là tất cả giá cả và sản lượng đều được quyết định bởi nhà sản xuất. Để trả lời những câu hỏi này, chúng ta sẽ phải trừu tượng hóa những hành vi tiêu dùng cá nhân và nghĩ đến khái niệm thị trường. Tại đó, nhu cầu của từng cá nhân đơn lẻ sẽ được kết hợp lại để hình thành nhu cầu thị trường. Tương tự như vậy, những quyết định của từng doanh nghiệp sẽ được gộp lại thành khả năng cung cấp của thị trường - Thị trường cạnh tranh sẽ bao gồm rất nhiều doanh nghiệp, mà trong đó không doanh nghiệp nào có 1 thị phần đáng kể của tổng sản lượng trên thị trường - Hàng hóa là đồng nhất. Sản phẩm của một doanh nghiệp không thể phân biệt được với sản phẩm của các doanh nghiệp khác. Hay nói cách khác, là không có sự “cá biệt hóa” sản phẩm - Mọi doanh nghiệp trong thị trường cạnh tranh đều cố gắng mở rộng sản lượng cho tới khi chi phí cậ n biên bằng với giá bán, đến mức mà giá và lợi nhuận cận biên là như nhau đối với nhiều doanh nghiệp. 4
    - Xu hướng mở rộng sản xuất và tăng cung thị trường khi lợi nhuận tăng, tạo nên một áp lực lớn lên giá và lợi nhuận trong thị trường cạnh tranh. Lợi nhuận kinh tế sẽ tiến tới 0 khi mà giá bị đẩy xuống tới mức của chi phí sản xuất bình quân. 2. Bản chất của sự cạnh tranh Một trong những đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo, đó là doanh nghiệp là “ngừơi chấp nhận giá” (price – taker). Một doanh nghiệp cạnh tranh có thể bán sản phẩm của mình tại một mức giá phổ biến trên thị trường. Nếu như họ muốn tăng giá bán, họ sẽ chẳng bán được gì cả, vì người tiêu dùng sẽ chuyển sang mua của người khác. Trong trường hợp này, doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo không có “sức mạnh thị trường” – không có khả năng kiểm soát giá của hàng hóa mà họ đang bán. Nếu nhìn lướt qua, có vẻ như mọi doanh nghiệp đều có sức mạnh trị trường. Nhưng điều quan trọng đó là “giá thị trường”, đó là mức giá mà hàng hóa thực sự được bán trên thị trường. Ví dụ như một nhà máy sản xuất 10.000 tấn thép một năm, sẽ không thể làm ảnh hưởng tới giá thị trường của mặt hàng thép. Vì có tới gần 400 triệu tấn thép được đưa ra thị trường hàng năm, và nếu như có thêm hay bớt 10.000 tấn thì cũng chẳng đáng kể gì. Hay nói cách khác, sản lượng của một doanh nghiệp đơn lẻ quá nhỏ so với lượng cung cấp trên thị trường, vì vậy nó không có sự ảnh hưởng đáng kể nào lên tổng sản lượng hay giá cả thị trường. Do đó, một doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo là doanh nghiệp mà có sản lượng rất nhỏ trong mối quan hệ với tổng dung lượng thị trường, nên mọi quyết định về sản xuất của nó đều không gây ra một ảnh hưởng rõ ràng nào lên giá thị trường. Và ngược lại thì một doanh nghiệp lớn và có “sức mạnh thị trường” là doanh nghiệp mà mọi quyết định của nó đều có thể làm thay đổi đường cung của thị trườngvà do đó phá vỡ sự cân bằng trên thị trường. Trong trường hợp này, những doanh nghiệp có sức mạnh thị trường, họ là “người định giá” (price – setter), chứ không còn là “người chấp nhận giá”. Thay vì phải chờ đợi để tìm ra mức giá thị trường là bao nhiêu và sau đó đưa ra những điều chỉnh về sản lượng phù hợp, những doanh nghiệp này tự mình đưa ra giá cho những sản phẩm mà họ mới tung ra thị trường. Ví dụ như trong trường hợp của hãng xe hơi Ford trên thị trường ôtô của Mỹ. Vì Fords đã được khác biệt hóa, nên họ biết rằng doanh số sẽ không sụt giảm nhiều cho dù họ có đặt giá cao hơn một chú 5
    so với những nhà sản xuất khác. Họ sẽ phải đối mặt với 1 đường cầu dốc xuống thay vì một đường cầu nằm ngang. Ford có ảnh hưởng nhất định tới giá thị trường và có thể tối đa hóa lợi nhuận bằng cách tìm ra sự kết hợp giữa giá và sản lượng, mà có thể làm cân bằng lợi nhuận cận biên và chi phí cận biên. 3. Đường cầu của thị trường và đường cầu của doanh nghiệp. Việc phân biệt giữa đường cầu thị trường và đường cầu đối với từng doanh nghiệp là rất quan trọng. Hãy cùng xem xét một ví dụ về thị trường sữa tươi, với giả định là công ty A có sản lượng khoảng 1000 chai mỗi tháng, trong khi đó tổng sản lượng của thị trường là khỏang vài triệu chai một tháng. Trong trường hợp này, giá sữa do công ty A bán ra sẽ được quyết định dựa trên giá sữa của thị trường. Và do đó, công ty A sẽ có một đường cầu nằm ngang vì sản lượng của công ty A quá nhỏ so với thị trường nên không tác động nhiều tới giá thị trường. Và lúc này, đường cầu thị trường là một đường dốc xuống từ trái sang phải, theo đúng luật cầu. Trường hợp thứ nhất xảy ra, đó là khi công ty A tăng gấp đôi sản lượng của từ 1000 chai mỗi tháng lên 2000 chai mỗi tháng. Khi đó, mặc dù sản lượng của A tăng rất đáng kể nhưng vẫn là rất nhỏ so với tổng cung thị trường. Nên hành động này không làm thay đổi đường cầu của doanh nghiệp A cũng như đường cầu của thị trường. Trường hợp thứ 2, có khoảng 1000 doanh nghiệp nhỏ như doanh nghiệp A cũng đồng thời muốn tăng sản lượng của mình. Điều này làm cho tổng cung trên thị trường tăng đáng kể và do đó cân bằng trên thị trường sẽ bị phá vỡ. Điều đó có nghĩa là sức mạnh ở đây được ẩn đằng sau sự hành động một cách tập thể, chứ không phải là hành động một cách riêng rẽ của bất kỳ doanh nghiệp nào. 6
    P Cung thị P trường Cầu của doanh nghiệp P1 Cầu thị P1 trường Q Q Q1 Q1 Hình (a) Hình (b) P Cung thị trường P Cung thị trường Đường cung mới Cầu thị P1 trường Cầu thị Q trường Q1 Q Q1 Q2 Hình (c) Hình (d) Hình (a) : Cân bằng ban đầu của thị trường Hình (b): Đường cầu của doanh nghiệp A Hình (c): Cân bằng của thị trường khi công ty A tăng sản lượng Hình (d): Cân bằng mới của thị trường khi nhiều doanh ngiệp tăng sản lượng. 4. Gia nhập thị trường và những rào cản gia nhập thị trường Những doanh nghiệp mới sẽ có thể gia nhập một ngành sản xuất đang có lợi nhuận cao và góp phần làm giảm giá, và lợi nhuận của hàng hóa đó xuống cho tới khi nào không có một rào cản đáng kể nào đối với việc gia nhập thị trường. Những rào cản đó có thể bao gồm quyền sở hữu công nghiệp, quyền kiểm soát những yếu tố đặc biệt của sản xuất, sự chấp nhận của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó đã được xây dựng trên cơ sở lâu dài, và rất nhiều hình thái khác của việc quản lý giá cả. Tất cả những rào cản đó gây ra sự rủi ro, những chi phí tốn kém và thậm chí làm cho doanh nghiệp không thể thâm nhập được vào thị trường mới này. Nếu như không có những rào cản đó, những doanh nghiệp mới sẽ sẵn sàng hơn và phải chịu ít rủi ro hơn khi gia nhập vào thị 7
    trường này. Sẽ không có gì là ngạc nhiên, những doanh nghiệp đã tồn tại trong những ngành có lợi nhuận cao đó luôn tìm mọi cách, và cố gắng để doanh nghiệp mới không gia nhập được vào ngành, bằng cách dựng lên các rào cản gia nhập. II. Những vấn đề lý luận liên quan đến “Lý thuyết trò chơi” 1. Lịch sử của “Lý thuyết trò chơi” Những thảo luận đầu tiên được biết đến về lý thuyết trò chơi xuất hiện trong một lá thư viết bởi James Waldegrave vào năm 1713. Trong lá thư này, Waldegrave đưa ra lời giải chiến thuật hỗn hợp “minimax” cho một trò đánh bài hai người chơi, có tên gọi là “le Her”. Chỉ đến khi sự xuất bản “Nghiên cứu về những định luật toán học của lý thuyết tài sản” của Antoine Augustin Cournot vào năm 1838 thì những phân tích chung về lý thuyết trò chơi mới được theo đuổi. Trong tác phẩm này Cournot xem xét duopoly và đưa ra một phiên bản giới hạn của “cân bằng Nash” Mặc dù những phân tích của Cournot là tổng quát hơn của Waldegrave, lý thuyết trò chơi chưa thật sự tồn tại như là một ngành duy nhất cho đến khi John von Neumann xuất bản một loạt các bài báo vào năm 1928. Những kết quả này sau này được mở rộng thêm ra trong cuốn sách xuất bản năm 1944, có tên là “Lý thuyết trò chơi và các hành vi kinh tế” bởi John von Naumann và Oskar Morgenstern. Công trình khoa học này rất xuất sắc và ngay lập tức được tiên đoán sẽ trở thành một trong những thành tựu khoa học vĩ đại nhất của thế kỉ. Tác phẩm uyên thâm này chứa đựng những phương pháp tìm những lời giải tối ưu cho những trò chơi tổng bằng không với hai người chơi. Nó đã dẫn đến một số lượng lớn các công trình kỹ thuật được viết ra trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, chiến lược quân sự, luật, công nghệ thông tin và thậm chí cả sinh học. Trong suốt khoảng thời gian này, những tác phẩm về lý thuyết trò chơi chủ yếu tập trung vào lý thuyết các trò chơi hợp tác, phân tích về những chiến thuật tối ưu cho một nhóm các cá nhân, giả sử rằng họ có thể đảm bảo những thỏa thuận giữa họ với những chiến thuật thích hợp. Lý‎ thuyết trò chơi bắt đầu hình thành và áp dụng từ những ngày đầu của thế chiến thứ hai, khi các lực lượng hải quân Anh chơi trò mèo vờn chuột với các tàu chiến ngầm của phát xít Đức và họ muốn nắm rõ hơn về trò chơi để có thể thắng được nhiều hơn. 8
    Họ đã khám phá ra rằng những bước đi đúng hóa ra lại không phải là những gì các hoa tiêu và thuyền trưởng vẫn làm dựa vào trực giác của mình. Bằng cách áp dụng những khái niệm về sau được biết đến như lý thuyết trò chơi, người Anh đã có thể cải thiện thành tích bắn trúng đích của mình lên đáng kể. Thắng lợi đối với các tàu ngầm của địch đã cho phép họ tiếp tục áp dụng lý thuyết trò chơi vào các hoạt động khác trong chiến tranh. Vào năm 1950, thảo luận đầu tiên về “Prisoner’s dilemma” (Tình thế tiến thoái lưỡng nan của 2 người tù) xuất hiện, và một thử nghiệm được làm về trò chơi này tại công ty RAND. Vào cùng khoảng thời gian đó, John Nash phát triển một định nghĩa về một chiến thuật “tối ưu” cho các trò chơi với nhiều người chơi, và chưa một tối ưu nào được định nghĩa trước đó. Định nghĩa này về sau được biết đến với tên gọi “cân bằng Nash”. John Nash đã thành công trong việc khái quát hóa định lý minimax bằng việc cho rằng mỗi trò chơi cạnh tranh đều có ít nhất một điểm cân bằng trong cả hai chiến lược: hỗn hợp và đơn thuần (mix and pure strategy). Ông đã dùng tên của mình đặt cho điểm cân bằng. Với việc đưa ra giải pháp dựa trên cơ sở điểm cân bằng, điểm cân bằng Nash trở thành khái niệm về lý thuyết trò chơi được ứng dụng rộng rãi nhất tính đến thời điểm hiện nay. Lý thuyết trò chơi trải qua một thời gian sôi động trong những năm 1950, trong những năm đó những khái niệm về cốt lõi, dạng trò chơi bao quát, trò chơi giả, trò chơi lặp và giá trị Shapley được phát triển. Thêm vào đó, những ứng dụng đầu tiên của lý thuyết trò chơi vào triết học và khoa học chính trị cũng được diễn ra trong thời gian này Vào năm 1965, Reinhard Selten giới thiệu khái niệm lời giải của các cân bằng lý tưởng của các trò chơi con, làm chính xác thêm “cân bằng Nash”. Vào năm 1967, John Harsanyi phát triển các khái niệm “thông tin hoàn hảo” và “trò chơi Bayesian”. Trong những năm 1970, lý thuyết trò chơi được áp dụng rộng rãi vào sinh học, chủ yếu là do kết quả của các công trình của John Maynard Smith và “chiến lược tiến hóa bền vững” của ông. Năm 1994, lần đầu tiên vai trò quan trọng của “Lý thuyết trò chơi” được công nhận rộng rãi khi giải Nobel kinh tế được trao cho những học giả có những nghiên cứu về 9
    học thuyết này. 3 học giả gồm John C. Harsanyi (1920 – 2000) người Mỹ gốc Hungary, John F. Nash Jr. (1928) học giả người Mỹ, Reinhard Selten (1930) học giả người Đức đã được trao tặng giải thưởng Nobel kinh tế vì sự tiên phong của họ trong việc phân tích sự cân bằng trong lý thuyết trò chơi. Và gần đây nhất, ngày 10/10/2005, một lần nữa những nghiên cứu về “Lý thuyết trò chơi” lại được vinh danh tại giải thưởng cao quí Nobel. Đồng chủ nhân của giải thưởng trị giá 1,3 triệu USD này là hai nhà nghiên cứu kinh tế Thomas Schelling người Mỹ, và Robert Aumann người Israel. Theo công bố của Viện hàn lâm hoàng gia Thụy Điển, hai nhà nghiên cứu kinh tế trên được tôn vinh bởi nhữngđóng góp quan trọng của họ trong việc tiếp tục phát triển “Lý thuyết trò chơi”. Các công trình nghiên cứu của hai nhà khoa học trên đã đi sâu vào việc lý giải các vấn đề liên quan đến những xung đột và hợp tác, đặc biệt là các xung đột kinh tế như tranh chấp về giá cả hay chiến tranh thương mại. Giáo sư Thomas Schelling trước kia từng học, nghiên cứu và giảng dạy tại đại học Havard, sau là giáo sư của đại học Maryland. Chuyên ngành chính của ông là kinh tế chính trị trong khi sở trưởng của Robert Aumann là các mô hình tóan trong kinh tế. Những đóng góp của Thomas Schelling và Robert Aumann được đánh giá cao bởi hai ông đã lập luận khá thuyết phục việc “Lý thuyết trò chơi” sẽ vượt qua biên giới của mỗi quốc gia. Điều đó lại càng có y nghĩa tại thời điểm của thế kỷ 21, khi hội nhập và toàn cầu hóa trở thành tất yếu và hiển nhiên. Trong khi Aumann được tôn vinh bởi những lý thuyết mang tính lý luận cho “Lý thuyết trò chơi” thì Thomas Schelling lại được ghi công cho những áp dụng lý thuyết này của ông trong thực tế. Trong những năm 1950, Schelling đã từng thử áp dụng học thuyết về trò chơi trong các vấn đề an ninh thế giới và chạy đua vũ trang giữa hai khối Đông – Tây. Song song với các công trình của Schelling thì Aumann cũng có những nghiên cứu của riêng mình liên quan đến phát triển học thuyết trò chơi. Phương pháp và cách thức nghiên cứu của Aumann khác hẳn với Schelling cho dù hai ông có cùng mục đích nghiên cứu. Schelling dùng nhiều những ví dụ dễ hiểu và thực tế đã xảy ra. Còn Aumann thiên về mô hình toán học, trừu tượng nhưng có khả năng khái quát cao. Ông tập trung vào việc nghiên cứu kết quả cuối cùng của cuộc chơi giữa những thành viên có xung đột lợi ích 10
    với nhau. Aumann đã tìm cách lý giải tại sao một nhóm thành viên chơi lại có khả năng thắng thế khi những xung đột lợi ích cứ được lặp lại. Đó là do những thành viên này biết cách hợp tác và tạo ra liên minh có lợi cho mình. Robert Aumann cũng đã thể hiện trong các công trình của mình những điều kiện nhất định có thể tạo thuận lợi cho việc hợp tác và ngược lại với những điều kiện khác có thể làm ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng hợp tác. Kết quả nghiên cứu này được coi là công cụ rất tốt để giải thích và đưa ra hướng giải quyết các xung đột kinh tế, tranh chấp về giá cả hay thương mại. 2. Khái niệm về “Lý thuyết trò chơi” “Lý thuyết trò chơi” có thể được định nghĩa là một lý thuyết toán học về việc ra quyết định của những người tham gia trong hoàn cảnh mâu thuẫn nhau về mặt lợi ích. 1 Chiến thắng của mỗi doanh nghiệp trên thị trường không phụ thuộc vào chiếc bánh thị trường, hay dựa trên quan điểm về sự công bằng. Nó cũng không phụ thuộc vào việc doanh nghiệp đó chơi tốt thế nào trong trò chơi kinh doanh đó. Mà việc bạn nhận được bao nhiêu phụ thuộc vào tương quan quyền lực của bạn trong trò chơi và quyền lực của những người khác cũng đòi c hia chiếc bánh thị trường đó. Quyền lực – dù của bạn hay của những người khác – đều được xác định bởi cơ cấu của trò chơi. Lý thuyết trò chơi cho biết cách làm thế nào để lượng hoá được các quyền lực đó. Lý thuyết trò chơi khởi đầu là một nhánh của ngành toán học ứng dụng. Cũng có thể gọi đó là khoa học về chiến lược. Nó phân tích các tình huống trong đó vận may của tất cả mọi người đều phụ thuộc lẫn nhau. Lý thuyết trò chơi đưa ra một cách có hệ thống để phát triển các chiến lược khi số phận của người này phụ thuộc vào những gì người khác làm. Vai trò của lý thuyết trò chơi trong việc phân tích các hành vi kinh tế là ở chỗ lý thuyết này luôn cố gắng lường trước, dự đoán trước những sự thay đổi trong việc gia nhập hay rút lui khỏi ngành sản xuất, thay đổi về công nghệ hay phát triển sản phẩm, giá cả hàng hoá hay những chương trình quảng cáo, hay ít nhất là đi trước một bước trong cuộc cạnh tranh. Không giống như trong thị trường cạnh tranh độc quyền hay thị trường cạnh tranh hoàn hảo, ngày nay mọi doanh nghiệp đều phải xem xét đến những 1 Định nghĩa của John von Neumann về “Lý thuyết trò chơi” 11
    phản ứng tương tự của đối thủ cạnh tranh khi họ đưa ra những quyết định chiến lược về giá, chi phí quảng cáo, đầu tư, cũng như nhiều yếu tố khác. Nói cách khác, “Lý thuyết trò chơi” tập trung vào vấn đề gây nhiều khó khăn nhất: đó là xây dựng các chiến lược đúng đắn và ra các quyết định đúng đắn. Có rất nhiều cuốn sách giá trị đề cập đến việc làm thế nào tạo được một môi trường quản lý để có thể đưa ra những quyết định đúng. Cũng có rất nhiều cuốn sách giá trị hướng dẫn cách làm thế nào để xây dựng các tổ chức một cách hiệu quả nhằm thực hiện các quyết định đã đưa ra. Tuy nhiên, vẫn còn cần phải có thêm những chỉ dẫn để nhận biết đâu là chiến lược đúng đắn nhất để bắt đầu. Và đó chính là điều mà lý thuyết trò chơi mang lại. Nó đi thẳng vào điểm mấu chốt của vấn đề, chỉ cho bạn biết những gì cần phải làm trước hết trên quan điểm về chiến lược. Lý thuyết trò chơi đặc biệt hiệu quả trong trường hợp có nhiều yếu tố liên hệ tương tác qua lại lẫn nhau và không một quyết định nào có thể được đưa ra một cách hoàn toàn độc lập với các quyết định khác. Kinh doanh ngày nay diễn ra trong một thế giới đầy những phức tạp khôn lường. Có những yếu tố mà bạn không hề nghĩ tới thực ra lại có thể quyết định sự thành bại của bạn. Thậm chí ngay cả khi bạn nhận biết được tất cả các yếu tố liên quan thì bất kì điều gì làm thay đổi một trong số đó đều có nhiều khả năng gây ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác nữa. Giữa tất cả những hỗn tạp như vậy, lý thuyết trò chơi tách mỗi cuộc chơi ra các thành phần chủ yếu. Nó giúp bạn thấy được điều gì đang xảy ra và cần phải hành động như thế nào khi đó. Lý thuyết trò chơi là cách tiếp cận cần tiếp tục được mở rộng và nâng cao hơn nữa. Nó không phải là một “đơn thuốc” cụ thể phù hợp cho một thời điểm cụ thể trong quá trình kinh doanh. Nó cũng sẽ không vô hiệu hoá ngay lập tức khi các điều kiện môi trường xung quanh thay đổi. Lý thuyết trò chơi là cách suy nghĩ có thể tồn tại trong tất cả các môi trường kinh doanh đang biến đổi không ngừng. Trong nhiều trường hợp, lý thuyết trò chơi gợi ra những phương án lựa chọn mà nếu không có lý thuyết đó thì những phương án đó không bao giờ được xem xét đến một cách cẩn thận. Đây là hệ quả của sự tiếp cận có hệ thống trong lý thuyết trò chơi. Bằng cách trình bày mọt bức tranh hoàn chỉnh hơn cho mỗi bối cảnh kinh doanh, lý thuyết 12
    trò chơi giúp nhìn thấy những khía cạnh c ủa tình huống mà bằng cách khác có thể đã bị bỏ qua. 3. Khái niệm về “Mạng giá trị” trong lý thuyết trò chơi. Để có thể áp dụng lý thuyết trò chơi vào thực tiến kinh doanh, một câu hỏi quan trọng được đặt ra là: ai là những người chơi trong trò chơi kinh doanh này, và vai trò của họ là gì ? Đó chính là khách hàng, nhà cung cấp, và đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Và một nhóm người chơi khác nữa: đó là những nhà cung cấp các sản phẩm bổ trợ. Và để có thể thấy được mối liên hệ giữa những người chơi này, cũng như vai trò của họ trong trò chơi kinh doanh, chúng ta hãy cùng xem xét đến một mô hình dưới dạng giản đồ được gọi là “Mạng giá trị”. Khách hàng Đối thủ Công ty Người bổ trợ cạnh tranh Nhà cung cấp Hình 1 – Mô hình về “Mạng giá trị” trong “Lý thuyết trò chơi” 3.1 Đối thủ cạnh tranh và người bổ trợ Ở hai phía trục ngang của giản đồ là đối thủ cạnh tranh và người bổ trợ. Trong đó, người chơi sẽ là người bổ trợ của bạn nếu khách hàng đánh giá sản phẩm của bạn cao hơn khi họ có cả sản phẩm của người đó so với chỉ có sản phẩm của bạn. Và ngược lại, 13
    người chơi sẽ là đối thủ cạnh tranh của bạn nếu khách hàng đánh giá sản phẩm của bạn thấp hơn khi họ có cả sản phẩm của người đó so với khi họ chỉ có sản phẩm của bạn. Để có thể hiểu rõ hơn về khái niệm người bổ trợ, chúng ta hãy cùng xem xét ví dụ về sản phẩm bánh mỳ kẹp thịt (hot dog). Trên thị trường bánh mỳ kẹp thịt này, Oscar Mayer là một hãng bánh mỳ kẹp thịt nổi tiếng tại New York và được rất nhiều ưa thích. Trong khi đó, Coleman’s cũng là một nhà sản xuất sản phẩm mù tạt có tiếng tại New York. Và một điều hiển nhiên là hầu hết khách hàng đều thích thưởng thức món bánh mỳ kẹp thịt cùng với mù tạt. Nên trong trường hợp này, khách hàng sẽ đánh giá sản phẩm bánh mỳ kẹp thịt của Oscar Mayer cao hơn nếu họ có cả sản phẩm mù tạt Coleman’s. Vì vậy, Coleman’s được coi là người bổ trợ của Oscar Mayer. Trong khi đó, P&G và Unilever là một ví dụ kinh điển về đối thủ cạnh tranh. Nếu như bạn đã có một sản phẩm dầu gội đầu của P&G thì bạn sẽ không đánh giá cao sản phẩm tương tự của Unilever. Và ngược lại cũng vậy, khi bạn đã sản phẩm của Unilever thì cũng chẳng có nhiều lý do khiến bạn muốn mua thêm một sản phẩm tương tự của P&G. Với cách tiếp cận truyền thống, đối thủ cạnh tranh chính là các công ty khác trong ngành công nghiệp của bạn, những công ty làm ra các sản phẩm tương tự như sản phẩm của bạn. Nhưng ngày nay, khi mà khách hàng chỉ quan tâm đến sản phẩm cuối, chứ không quan tâm đến công ty cung cấp cho họ thuộc ngành công nghiệp này hay ngành công nghiệp khác, thì cách tiếp cận này đã không còn phù hợp. Một cách đúng đắn để xác định đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp là, hãy đặt mình vào địa vị khách hàng của mình để tìm hiểu. Khách hàng có thể mua những gì mà sẽ làm giảm giá trị sản phẩm của doanh nghiệp đối với họ ? Khách hàng còn có những cách nào khác để thoả mãn các nhu cầu của mình ? Các câu hỏi đó sẽ giúp doanh nghiệp xác định rõ ràng hơn đối thủ cạnh tranh của mình là ai. 3.2 Khách hàng và nhà cung cấp Ở hai phía trục đứng của “mạng giá trị” là khách hàng và nhà cung cấp của công ty. Các nguồn lực như vật tư và lao động được chuyển từ nhà cung cấp đến công ty, và hàng hoá - dịch vụ được công ty giao cho khách hàng của mình. Tiền được chuyển theo chiều ngược lại, từ khách hàng đến công ty, và từ công ty đến nhà cung cấp. Và 14
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...