Tiểu Luận Lý luận về công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Ý nghĩa , sự vận dụng này ở nước ta .

Thảo luận trong 'Chứng Khoán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài : Lý luận về công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Ý nghĩa , sự vận dụng này ở nước ta . ​ Lời nói đầu​
    Xuất phát từ thực trạng khách quan , các doanh nghiệp nhà nước làm việc kém hiệu quả , tình trạng lãi giả , lỗ thật vẫn còn phổ biến , hàng năm Chính phủ phải bỏ ra một phần ngân sách không nhỏ để bù lỗ . Hơn nữa trước đòi hỏi phải đa dạng hóa các thành phần kinh tế , đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng kinh tế thị trường . Vì vậy , việc hình thành các công ty cổ phần và vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là tất yếu đối với quá trình phát triển kinh tế nước ta hiện nay . Thực tế sau khi cổ phần hóa các doanh nghiệp , các công ty cổ phần đã làm việc có hiệu quả hơn rất nhiều , lợi ích lúc này không còn phụ thuộc vào nhà nước nữa mà ảnh hưởng trực tiếp tới những cổ đông , tới người lao động . Điều đó đã chỉ ra việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một bước đi đúng đắn cho mọi nền kinh tế và Việt Nam đã áp dụng mô hình này một cách hoàn toàn hợp lí , thành công . Tuy nhiên trước thực trạng nền kinh tế vẫn đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội , chúng ta sẽ còn rất nhiều khó khăn trong thời gian tới .
    Nếu như công ty cổ phần là bước đi chiến lược cho quá trình phát triển của mọi nền kinh tế thì công cụ tài chính - thị trường chứng khoán rõ ràng là một trong những công cụ mang lại sự giàu có vĩ đại nhất trong lịch sử . Trong những thập kỉ gần đây , lãi suất của một người ở trong TTCK có thể tăng theo cấp số mũ . Chứng khoán giờ đây đã là sự lựa chọn của mọi người với mong muốn làm giàu . Nhu cầu này càng tăng đối với công nghệ giao dịch trong nền kinh tế thị trường thời mở cửa , và bây giờ thì hầu như bất kì ai đều có thể sở hữu chứng khoán . Tuy nhiên mặc dù chứng khoán thông dụng như vậy nhưng hầu hết mọi người chúng ta đều không hoàn hiểu hết về chúng . Phần lớn kiến thức đều được thu nhặt ở những buổi nói chuyện phiếm từ những người mà thậm chí họ còn không biết mình đang nói về cái gì . Chúng ta hoàn toàn có thể được nghe những điều này như : “ Coi chừng cổ phiếu đấy , bạn có thể mất chiếc áo của mình trong vài ngày ” hay “ Anh ấy đang chết chìm với công ty .” . Sự xuất hiện của những kiến thức sai lạc này là do tâm lí muốn có nhiều thông tin ngay lập tức của mọi ngưòi . Chứng khoán có thể tạo ra những lợi nhuận khổng lồ nhưng chúng không phải là không có rủi ro. Giải pháp duy nhất cho những hiểu biết sai lầm này là đào tạo về chứng khoán , cách hữu hiệu bảo vệ chúng ta khỏi những rủi ro của chứng khoán là hiểu một cách chính xác mình đang đầu tư vào cái gì .
    Chính vì những lí do trên , em xin mạnh dạn nhận viết đề tài : “ Lý luận về công ty cổ phần và thị trưòng chứng khoán , ý nghĩa , sự vận dụng này ở nước ta” . Mặc dù đã rất cố gắng nghiên cứu , tìm hiểu về công ty cổ phần và TTCK nhưng do hiểu biết còn hạn chế và TTCK cũng như tiến trình cổ phần hóa DN ở Việt Nam luôn biến động không ngừng , khó có đựơc một cái nhìn đúng đắn khách quan , nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót , sai lầm . Rất mong thầy cô sẽ đọc và góp ý để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn .
    Em xin được chân thành cảm ơn thầy giáo GS.TS Phạm Quang Phan đã hướng dẫn , giúp đỡ em hoàn thành bài viết này .

    Mục lục​ Phần 1 : Lời nói đầu
    Phần 2 : Nội dung 1
    A . Lý luận chung về công ty cổ phần và thị trường chứng khoán
    I . Khái niệm , ưu điểm và nhược điểm của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán
    1 . Công ty cổ phần 1
    2. Thị trường chứng khoán 2
    II . Vai trò công ty cổ phần và thị trường chứng khoán trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay
    1 . Vai trò của công ty cổ phần và mục tiêu của việc cổ phần hoá doanh nghiệp 4
    2 . Vai trò của thị trường chứng khoán 6
    B . Công ty cổ phần - quá trình hình thành và phát triển , đánh giá chung về thị trường chứng khoán Việt Nam
    I . Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần 6
    II . Thực trạng trong vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp ở Việt Nam 7
    III . Cái nhìn tổng quát về thị trường chứng khoán Việt Nam trong quá trình hội nhập 8
    C . Một số giải pháp đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp , lối đi nào cho thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay
    I . Những yếu tố khó khăn trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp , phát triển ổn định thị trường chứng khoán 12
    II . Giải pháp và kiến nghị 15
    Phần 3 : Lời kết 19


    PHẦN 2 : NỘI DUNG


    A . Lý luận chung về công ty cổ phần và thị trường chứng khoán
    I . Khái niệm , ưu điểm và nhược điểm của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán
    1 . Công ty cổ phần

    Chúng ta thường được nghe nói nhiều về công ty cổ phần , vậy công ty cổ phần là gì ? Công ty cổ phần là một dạng pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn , được thành lập và tồn tại độc lập với những chủ thể sở hữu nó . Vốn của công ty được chia nhỏ thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được phát hành huy động vốn tham gia của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế . Các nhà đầu tư trở thành những cổ đông chính thức khi thực hiện mua các cổ phần do công ty phát hành . Cổ đông được quyền tham gia quản lý , kiểm soát , điều hành công ty thông qua bầu cử và ứng cử vào các vị trí trong ban quản lí , Ban kiểm soát và Ban điều hành . Ngoài ra cổ đông còn được quyền hưởng các khoản lợi nhuận do công ty tạo ra cũng như chịu lỗ với mức độ góp vốn .
    Ưu điểm của công ty cổ phần là nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với tỉ lệ góp vốn trong công ty . Quy mô hoạt động lớn và khả năng mở rộng kinh doanh dễ dàng từ việc huy động vốn cổ phần . Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn từ nơi này sang nơi khác , từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác dễ dàng thông qua hình thức chuyển nhượng , mua bán cổ phần . Công tác quản lí hiệu quả cao do tính độc lập giữa quản lí và sở hữu .
    Nhược điểm : Mức thuế tương đối cao vì ngoài thuế , công ty phải thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước , các cổ đông phải chịu thuế bổ sung từ nguồn cổ tức và lãi cổ phần theo quy định của nhà nước . Chi phí thành lập công ty tương đối cao . khả năng bảo mật kinh doanh và tài chính bị hạn chế do phải công khai và báo cáo với các cổ đông của công ty . Khả năng thay đổi phạm vi kinh doanh kém linh hoạt do phải tuân thủ theo những quy định trong Bản điều lệ của công ty . Tuy nhiên với môi trường kinh doanh hiện nay trên thế giới cũng như tại Việt Nam những nhược điểm trên hoàn toàn có khả năng khắc phục , hạn chế tối đa , đồng thời phát huy được những ưu điểm của loại hình này.


    2. Thị trường chứng khoán
    Thị trrường chứng khoán là một thị trường mà nơi đó người ta mua bán , chuyển nhượng , trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời . Tuy nhiên , đó có thể là TTCK tập trung hoặc phi tập trung . Tính tập trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức tại một địa điểm cụ thể .
    Hình thái điển hình của TTCK tâp trung là Sở giao dịch chứng khoán ( Stock exchange ) . Tại Sở giao dịch chứng khoán , các giao dịch được tập trung tại một địa điểm ; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch .
    TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC ( over the counter ) . Trên thị trường OTC , các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử . Giá trên thị trường này được hình thành theo phương thức thỏa thuận .
    Ưu điểm và cũng là chức năng của thị trường chứng khoán gồm có một số nội dung chính sau đây :
    a . Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế : Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các doanh nghiệp phát hành , số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội . Thông qua TTCK , chính phủ và chính quyền ở địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế , phục vụ các nhu cầu chung của xã hội .
    b. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng : TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với những cơ hội lựa chọn phong phú . Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất , thời hạn và độ rủi ro , cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hóa phù hợp với khả năng , mục tiêu và sở thích của mình .
    c. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán : Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc thành các loại chứng khoán khác khi họ muốn . Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với các nhà đầu tư . Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt , an toàn của vốn đầu tư . TTCk hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao .
    d . Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp : Thông qua chứng khoán , hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện , từ đó cũng tạo ra một môi trường lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn , kích thích áp dụng công nghệ mới , cải tiên sản phẩm .
    e . Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô : Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác ,. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng , nền kinh tế tăng trưởng ; ngược lại giá chứng khoán giảm cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế . Vì thế , TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô . Thông qua TTCK , Chính phủ có thể mua bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lí lạm phát . Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách , biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế .
    Về mặt nhược điểm , có thể nói TTCK chẳng khác gì một con dao hai lưỡi , nếu biết cách quản lí TTCK một cách hiệu quả thì nó sẽ phát huy được hết những chức năng cần thiết của mình cho nền kinh tế , ngược lại TTCk cũng có thể gây ra những hậu quả nặng nề cho nền kinh tế – một trong số những hậu quả đó chính là lam phát . Chúng ta hãy cùng suy ngẫm một chút về chuyện làm giá và lợi nhuận giữa tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC và những nhà đầu tư , những doanh nghiệp lớn có cổ phiếu niêm yết trên TTCK Việt Nam .
    OPEC được thành lập từ năm 1960 bởi Iran , Iraq , A Rập Saudi và Vênzuela . Hiện tại tổ chức này còn có thêm 9 quốc gia nữa để tạo thành một liên minh độc quyền ( được phương Tây gọi là Cartel ) đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định giá dầu thô trên thế giới . Về một khía cạnh nào đó , nhiều nhà kinh tế học ví vai trò của OPEC là định ra giá cả trong khi đa phần Chính phủ và người dân các quốc gia còn lại là người chấp nhận giá trên thị trường dầu . Và vì thế , có người ví von rằng OPEC đã bằng nhiều cách rút bớt sự giàu có của các nước phát triển ( và cả đang phát triển ) về cho mình . Lợi nhuận từ dầu hỏa của OPEC trong thời gian gần đây đã được một số nhà phân tích hé lộ : nếu như giá dầu cứ giữ mức trên 100 đô la Mỹ/thùng thì chỉ trong sáu ngày OPEC sẽ kiếm đủ tiền để mua lại tập đoàn General Motors khổng lồ của Mỹ , và chỉ trong ba năm sẽ đủ tiền để mua 20% cổ phần của tất cả các công ty nằm trong danh sách S&P 500 . Theo cơ quan năng lượng Mỹ , các nước OPEC kiếm được doanh số khoảng 675 tỷ đô la Mỹ trong năm 2007 và dự kiến khoảng 863 tỷ đô la Mỹ trong năm 2008 (với những gì thực tế đang diễn ra có lẽ con số này sẽ còn cao hơn rất nhiều) , một khoản doanh thu tăng lên quá lớn trong khi cả thế giới đang phải đương đầu với đói nghèo , lạm phát và khủng hoảng tài chính . Thậm chí một số phân tích còn chỉ trích là ngay cả trong trưòng hợp giá dầu chỉ còn 50 đô la Mỹ một thùng thì các nước này vẫn kiếm được rất nhiều tiền . Trong thời gian gần đây , mặc các nỗ lực của Mỹ , các nước OPEC vẫn không có ý định gia tăng sản lượng dầu cho dù giá dầu vẫn đang ở mức cao , và nhiều lãnh đạo OPEC còn tuyên bố cho rằng họ hoàn toàn có khả năng kiểm soát sao cho giá dầu ở trên 80 đô la Mỹ /thùng .Đây dường như là một gáo nước lạnh dội vào lời kêu gọi của nhiều người dân đối với các công ty xăng dầu lớn là “ trong khi chúng tôi đang cố gắng cắt giảm nhu cầu sử dụng của mình và sống khó khăn hơn , các anh không thể cắt giảm lợi nhuận được chút nào hay sao ? “ . Những lời kêu gọi kiểu này phát đi trên khá nhiều phương tiện truyền thông của các nước phương Tây và nhằm vào các tập đoàn xăng dầu lớn . Nhưng dường như đã bỏ quên vai trò của người đứng đằng sau tấm màn giá xăng dầu cao : tổ chức độc quyền định giá OPEC , người cố tình điều khiển giá xăng dầu theo mong muốn của mình để thu lợi nhuận cao cho cả một khu vực sản xuất xăng dầu .
    Trở lại với TTCK Việt Nam , hãy thử hình dung nếu như xuất hiện một tổ chức những nhà đầu tư sở hữu sở hữu cổ phiếu lớn kết hợp với các doanh nghiệp có tiếng nói quyết định trên thị trường , thì TTCK Việt Nam sẽ chỉ còn nằm trong tay một số cá nhân , tính năng động ở thị trường thứ cấp sẽ không còn nữa. Ở nước ta hiện nay chưa có một liên minh nào thực sự chi phối thị trường chứng khoán , nhưng dáng dấp liên minh độc quyền quyết định giá cả kinh điển của kinh tế học đang xuất hiện . Nó giống như giai đoạn đầu của OPEC , các thành viên không tuân thủ thỏa thuận và sức mạnh của khối không đủ lớn để chống lại áp lực từ chính phủ nên liên minh này không mấy thành công .
    Vậy không chỉ đưa ra những phương hướng để phát triển và ổn định thị trường Chính phủ cũng cần có những điều luật cụ thể trong từng thời điểm , từng giai đoạn để giữ cho thị trường minh bạch , trong sáng , không để bất cứ một tổ chức nào , một nhóm người nào chi phối đến sự vận động của TTCK .
    II . Vai trò công ty cổ phần và thị trường chứng khoán trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay
    1 . Vai trò của công ty cổ phần và mục tiêu của việc cổ phần hoá doanh nghiệp
    a . Vai trò của công ty cổ phần
    Công ty cổ phần -một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp của mình.Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những lượng vốn lớn nằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội.
    Cơ cấu tổ chức trong công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách biệt quyền sở hữu và quyền kinh doanh,tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của một bên là đông đảo công chúng mua cổ phần còn bên kia là đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho những công cuộc kinh doanh quy mô lớn.
    Các cổ phiếu và trái phiếu của công ty cổ phần được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán,vì thế bất kể cổ phiếu được chuyển chủ bao nhiêu lần cuộc sống của các doanh nghiệp vẫn tiếp tục một cách bình thường mà không bị ảnh hưởng.Đồng thời nhờ cơ chế này nó đã tạo nên sự di chuyển linh hoạt các luồng vốn trong xã hội theo các nhu cầu và cơ hội đầu tư đa dạng của các công ty và công chúng.
    Hơn nữa , công ty cổ phần huy động được nguồn vốn trong xã hội cung cấp cho hoạt động kinh doanh và đầu tư phát triển của doanh nghiệp . Một mặt vừa góp phần tháo gỡ khó khăn cho ngân sách nhà nước (không phải chu cấp cho doanh nghiệp) mặt khác vốn và tài sản doanh nghiệp nhà nước nhờ quá trình cổ phần hoá thu lại sẽ được đầu tư mở rộng sản xuất;tăng thêm tài sản cố định góp phần to lớn thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
    Ngoài ra , hình thái công ty cổ phần xuất hiện sẽ thay đổi cung cách quản lý trong mỗi doanh nghiệp , ở công ty cổ phần quyền lợi của những người chủ mới của doanh nghiệp gắn chặt với sự thành bại của hoạt động sản xuất kinh doanh vì thế họ rất đoàn kết,gắn bó và thống nhất trong việc tìm kiếm và đưa ra phương hướng hoạt động phù hợp nhất của doanh ngiệp nhằm củng cố , tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm do họ sản xuất ra , quan tâm đến công việc công ty và lao động với tinh thần trách nhiệm cao.

    b . Mục tiêu của cổ phần hóa doanh nghiệp
    Việt Nam là một nước được xếp hạng có mức thu nhập khá thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới . Nguyên nhân của tình trạng này là do khu vực kinh tế quốc doanh vẫn chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiện nay . Những doanh nghiệp này mặc dù được Nhà nước đầu tư một lượng vốn khá lớn . Song do cơ chế quản lí cứng nhắc , thiếu năng động , tính canh tranh thấp , đầu tư dàn trải , công tác quản lí còn kém , một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lí có trình độ chuyên môn thấp , chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa , dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp , hiện tượng lãi giả , lỗ thật vẫn còn xảy ra ở một số doanh nghiệp quốc doanh . Vậy để có một nền kinh tế phát triển , đủ sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế , thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải thực hiện tốt các vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước , có như vậy mới góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh , tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp , tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu , trong đó có đông đảo người lao động , tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp , để sử dụng có hiệu quả vốn , tài sản cảu nhà nước và của doanh nghiệp . Mặt khác thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước sẽ góp phần huy động một lượng vốn lớn của toàn thể xã hội , bao gồm cá nhân và các tổ chức kinh tế , tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ , phát triển doanh nghiệp , thực sự phát huy vai trò làm chủ của người lao động , của các cổ đông và tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư và người lao động , bảo đảm hài hòa lợi ích giữa nhà nước , doanh nghiệp và người lao động . Nghị quyết hội nghị lần 3 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ : “Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước không được biến thành tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước . “ Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là sự thay đổi về mọi mặt , từ quyền sở hữu đến quyền năng pháp lí và phương pháp quản lí điều hành doanh nghiệp . Khi chuyển sang công ty cổ phần thì bản thân công ty cổ phần có quyền sở hữu với tài sản . Công ty cổ phần là một pháp nhân đầy đủ , cơ quan quyền lực cao nhất của công ty cổ phần là Đại hôị đồng cổ đông . Công ty cổ phần hoạt động theo Luật Doanh nghiệp , trên công ty cổ phần không có cơ quan chủ quản như doanh nghiệp nhà nước . Song thực trạng hiện nay có sự can thiệp hành chính của các cơ quan nhà nước trong vấn đề quản trị công ty cổ phấn sau khi cổ phần hóa .
    2 . Vai trò của thị trường chứng khoán
    Ngoài những chức năng đã trình bày ở phần 2 / I / A , thị trường chứng khoán còn có những vai trò hết sức quan trọng . Cụ thể thị trường chứng khoán là công cụ khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư . Đồng thời TTCK cũng là phương tiện huy động vốn hết sức dễ dàng và hiệu quả , bên cạnh đó TTCK cũng góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn , là công cụ làm giảm áp lực lạm phát , tạo thói quen về đầu tư trong đai bộ phận dân chúng cũng như trong doanh nghiệp . Ngoài ra TTCK còn là nơi thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài .
    B . Công ty cổ phần - quá trình hình thành và phát triển , đánh giá chung về thị trường chứng khoán Việt Nam
    I . Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần
    Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỉ XVI ở các nước tư bản phát triển như một nhu cầu khách quan của lịch sử .Trong suốt mấy trăm năm qua các công ty cổ phần đã chiếm một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế thế giới . Quá trình lịch sử hình thành và phát triển của hình thức công ty cổ phần trải qua bốn giai đoạn . Giai đoạn mầm mống : trong giai đoạn này vốn được góp theo một nhóm người với hoạt động liên kết lỏng lẻo . Giai đoạn hình thành : đã có sự xuất hiện của cổ phiếu và sự giao dịch chứng khoán , hoạt động có tổ chức hơn . Giai đoạn phát triển : các công ty cổ phần đã phổ biến ở các nước tư bản chủ nghĩa với hình thức đa quốc gia , đã hình thành những trung tâm tài chính quốc tế , giao dịch chứng khoán sôi động . Giai đoạn trưởng thành : là giai đoạn phát triển của những công ty xuyên quốc gia đa quốc gia , thu hút công nhân mua cổ phiếu , cơ cấu công ty cũng như pháp luật dần hoàn thiện hơn . Trở lại với Việt Nam , trong tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp : Hơn 10 năm qua việc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đã được thực hiện từng bước vững chắc theo đường lối nghị quyết của Đảng . Chính phủ đã cụ thể hóa các chủ trương của Đảng , ban hành đồng bộ các văn bản qui định với chính sách khá toàn diện phù hợp , kịp thời giải quyết các vấn đề đặt ra trong sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước nhất là việc xử lí nợ tồn đọng , lao động dôi dư .
    II . Thực trạng trong vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp ở Việt Nam
    Từ năm 2001 đến tháng 6/2005 cả nước đã sắp xếp lại 2.881 doanh nghiệp Nhà nước trong tổng số 5.655 doanh nghiệp Nhà nước ( có vào đầu năm 2001 ) trong đó đã cổ phần hóa 1.826 doanh nghiệp Nhà nước . Đến tháng 6/2005 cả nước còn 2.983 doanh nghiêph nhà nước 100% vốn nhà nước ( trong đó : 2.253 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh , 440 doanh nghiệp Quốc phòng , An ninh và sản xuất cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích , 290 doanh nghiệp Nông - Lâm trường . Về cơ bản , trong những năm qua , nhiều địa phương trong cả nước đã hoàn thành việc sắp xếp , đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước quy mô nhỏ . Như Quảng Ninh nay đã tinh đến chuyện giả thể Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước thuộc UBND tỉnh . Tương tự với Hải Phòng , việc sắp xếp đã hoàn thành cơ bản . Hiện chỉ có 12 doanh nghiệp nhà nước thuộc thành phố này , trong đó có tới bảy doanh nghiệp là các công ty thủy nông , thực tế chỉ còn lại năm doanh nghiệp Nhà nước . Còn với những doanh nghiệp nhà nước lớn , bước đầu chúng ta đã khởi động được việc cổ phần hóa một số công ty lớn như Vinaconex hay Vietcombank . Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước được cải thiện từng bước và ngày càng được đẩy nhanh tiến độ , nhất là hiện nay nước ta đang đứng trước nhiều áp lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế , do đó Chính phủ luôn quan tâm đến tiến trình này , nhất là hướng đến mục tiêu nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước . Hơn nữa trước đây doanh nghiệp nhỏ lẻ , phân tán , còn ngày nay thì rất tập trung , tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cổ phần hóa . Được biết , sẽ có khoảng 80 doanh nghiệp được chuyển sang mô hình mẹ-con , sau đó các doanh nghiệp con sẽ cổ phần hóa trước khi cổ phần hóa công ty mẹ . Ngoài ra , đối với những tập đoàn đang được xây dựng , thực hiện đa sở hữu nhưng nhà nước cần giữ cổ phần chi phối . Thực tế , Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh 104 đề án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước của các bộ , ngành , địa phương , Tổng công ty nhà nước đến hết năm 2006 .
    III . Cái nhìn tổng quát về thị trường chứng khoán Việt Nam trong quá trình hội nhập

    Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển đòi hỏi trong nước phải có một nguồn vốn lớn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế . Do đó , Việt Nam cần phải có chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để chuyển các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế thành nguồn vốn đầu tư và thị trường chứng khoán tất yếu sẽ ra đời vì nó giữ vai trò quan trọng đối với việc huy động vốn trung và dài hạn cho hoạt động kinh tế.
    Nhận thức rõ việc xây dựng thị trường chứng khoán là một nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tiến trình xây dựng và phát triển đất nước , trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế , phù hợp với điều kiện kinh tế – chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế , trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình thị trường chứng khoán trên thế giới , thị trường chứng khoán Việt Nam đã ra đời . Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP . Hồ Chí Minh ngày 20/7/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000 .
    Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam quả là một bước đột phá trong lĩnh vực phát triển tài chính . Nhưng chúng ta hãy nhìn lại xem , liệu sau một thời gian đi vào hoạt động TTCK có làm hài lòng các nhà kinh tế , các nhà đầu tư , Câu trả lời là không , nói một cách thẳng thắn , đến cuối năm 2003 TTCK Việt Nam vẫn “ hoạt động một cách cầm chừng “ . Thật vậy sau 3 năm đi vào hoạt động , TTCK Việt Nam vẫn chưa thực hiện được chức năng chính của mình là một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế , sàn giao dịch vắng bóng nhà đầu tư , có khi 3,4 ngày liền không tìm thấy sự xuất hiện của một nhà đầu tư nào. Các doanh nghiệp khát vốn chủ yếu vẫn vay ngân hàng và chính phủ phát hành trái phiếu cho các công trình vẫn phải động viên dân mua . Bên cạnh đó , tính thanh khoản trái phiếu qua TTCK còn thấp và đó cũng là lí do mà trái phiếu trên TTCK chưa đem lại sự hấp dẫn cho nhà đầu tư , thông tin trên thị trường thiếu minh bạch cũng làm các nhà đầu tư e ngại . Trong năm 2003 cũng đã có một số vấn đề liên quan đến tổ chức niêm yết chế độ công bố thông tin , nghĩa vụ công bố thông tin như Công ty Canfoco , Bibica gây ra tâm lí hoang mang cho giới đầu tư và gây ảnh hưởng đến một số DN khác niêm yết . Tuy vậy số doanh nghiệp này vẫn chưa được xử lí một cách thật sự thích đáng , điều này có thể làm tiền lệ cho những vụ vi phạm tiếp theo và dần đánh mất lòng tin của công chúng . Phần trách nhiệm ở đây cũng không thể bỏ qua vai trò của các công ty kiểm toán , có thể nói trong thời gian này , các công ty kiểm toán đã không hoàn thành tốt vai trò của mình , không thực sự có trách nhiệm trong việc đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp . Trong khi đó , cơ quan quản lí thị trường chỉ căn cứ vào đánh giá của cơ quan kiểm toán , không đi sâu vào công tác tài chính và mọi công bố trên thị trường đều dựa vào kết quả từ cơ quan kiểm toán công bố cho nhà đầu tư . Ở đây đã có một số dấu hiệu từ phía cơ quan kiểm toán làm sai lệch các chỉ tiêu tài chính trong công ty gây tâm lí hoang mang cho nhà đầu tư . Thiết nghĩ các công ty kiểm toán cũng có một vai trò không nhỏ trong việc “ thúc đẩy “ thị trường chậm phát triển và làm mất lòng tin trong giới đầu tư . Song song với sự chậm chạp của thị trường như vậy , nghị định sửa đổi Nghị định 48/CP – xương sống của thị trường chứng khoán – cũng đã chậm trễ nhiều lần so với dự kiến , việc hoàn tất và sửa đổi nghị định để trình chính phủ dường như diễn ra quá lâu , trong khi thị trường chứng khoán thì đang cầu cứu từng ngày , từng giờ . Vẫn biết để xây dựng văn bản đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều bộ , ngành với tính phức tạo cao và những sự điều chỉnh liên tục , tuy nhiên không thể vì những lí do đó mà chúng ta bỏ qua một sự thật cần nhìn nhận đúng hơn , đó là hành lang pháp lí của Việt Nam vẫn còn rất bất cập , thiếu hợp lí , cơ chế vận hành đã trơn tru hơn nhưng vẫn còn quá chậm chạp , thiếu hiệu quả . Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận công lao của nhà nước , chính phủ mà chỉ để góp phần thúc đẩy thị trường phát triển hơn . Thay đổi TTCK không phải một sớm một chiều là có thể làm được , không thể cùng một lúc có thể thay đổi hành lang pháp lí , nhận thức của người dân , của doanh nghiệp , nhưng ít nhất chỉ ra những khuyết điểm để sửa chữa cũng giúp chúng ta dần đưa TTCK thoát khỏi giai đoạn khởi đầu đầy khó khăn này .
    Chính phủ cũng đã thấy rõ sự bất hợp lí trong những chính sách phát triển thị trường vào thời điểm đó và đã đưa ra những chính sách cụ thể . Thật vậy , khuyến cáo từ chính phủ sắp tới TTCK sẽ là kênh huy động vốn quan trọng nhất của thị trường tài chính . Bởi vì theo thông lệ quốc tế , các DN , các nền kinh tế cần vốn thì có 80% huy động qua TTCK , 20% huy động vốn ngân hàng . Đây là một cấu trúc hoàn chỉnh của thị trường tài chính , còn ở Việt Nam vào thời điểm này điều đó ngược lại , tới 90% huy động qua ngân hàng và 10% huy động qua TTCK . Phải chăng đây cũng là môt phần nguyên nhân cảu tình trạng tín dụng nóng vào thời điểm đó . Nếu như sử dụng vốn ngắn hạn qua kênh ngân hàng mà đầu tư trung hạn và dài hạn thì sẽ dẫn đến những hậu quả khủng hoảng thị trường tài chính . Chúng ta lấy vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn và chúng ta cứ đảo nợ để kế tiếp nhau thì chắc chắn đến một lúc nào đó sẽ có cái sai lệch trong cấu trúc thị trường tài chính , đó là một điều không thể tránh khỏi . Cùng với những khuyến cáo về sử dụng kênh huy động vốn TTCK , chúng ta cũng đã có những biện pháp nhằm tạo nên tính thanh khoản cao của trái phiếu nhằm hấp dẫn giới đầu tư : Đầu tiên là thay đổi lại cách tính đinh lãi suất phát hành ; Thứ hai là cơ chế phát hành , phát hành trực tiếp đến người đầu tư , tránh giới hạn bởi một số tổ chức tài chính nhất định vì nếu họ không có nhu cầu bán lại trên thị trường thì sẽ không có sự sôi động của thị trường thứ cấp đối với trái phiếu .Thứ ba , phải làm cho công cụ trái phiếu trở thành công cụ tài chính thường xuyên , Chính phủ có thể liên tục ra các huy động mới , tạo ra một kênh huy động thực sự cho các nha đầu tư , các doanh nghiệp tham gia vào thị trường này . Thứ tư là phải tạo ra một cơ chế giao dịch . Thật vậy vào thời điểm đó cơ chế giao dịch qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán giống như giao dịch cổ phiếu là không phù hợp . Thông lệ quốc tế người ta không làm như vậy mà giao dịch trái phiếu dành cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp , hình thành một thị trường khác và thông thường giao dịch trên thị trường phi tập trung chứ không phải thị trường tập trung .
    Một bước đi chiến lược nữa được Chính phủ đề ra , theo sửa đổi Nghị định 48/CP , điều kiện phát hành ra công chúng và điều kiện niêm yết sẽ được nới lỏng . Bên cạnh đó , Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội cũng sẽ được nghiên cứu và đi vào hoạt động , tuy nhiên tiêu chuẩn niêm yết ở Hà Nội sẽ thấp hơn ở thành phố HCM . Chẳng hạn đối với công ty cổ phần muốn phát hành cổ phiếu , yêu cầu vốn điều lệ hiện là 10 tỷ đồng sẽ giảm xuống còn 5 tỷ . Yêu cầu sau 2 có lãi 2 năm liên tục gần nhất đến thời điểm xin phép phát hành sẽ giảm xuống một năm . Sau khi phát hành , các DN có vốn từ 5 tỷ trở lên có thể được niêm yết cổ phiếu để huy động vốn qua thị trường tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội .
    Trải qua một quá trình chung tay phát triển , đến nay , năm 2008 TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc , nhất là giai đoạn những năm 2006 , 2007 có thể coi là giai đoạn phát triển mạnh của TCCK Việt Nam , có thể đem so sánh với giai đoạn phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản những năm 1952-1973 . Tuy nhiên nhìn nhận một cách thực tế hơn , trong năm 2006 và 2007 TTCK Việt Nam phát triển quá nóng , giá trị cổ phiếu vượt trên giá trị thật của nó nhiều lần . Hãy hình dung một công ty phát hành cổ phiếu chỉ sau một thời gian rất ngắn giá trị cổ phiếu đã tăng lên hàng chục lần .Thế thì giá trị cao hơn đó từ đâu mà ra ? Thật vô lý nếu không nhận thấy rằng đó là giá trị ảo . Sự thật cũng đã chứng minh cho sự phát triển quá nóng của thị trường , những tháng đầu năm 2008 , TTCK Việt Nam chìm trong đêm tối , chỉ số Vn-Index tụt dốc không phanh , các nhà đầu tư thua lỗ nặng nề , những lá thư cầu cứu khẩn cấp đã được các nhà đầu tư gửi đến Thủ tướng Chính phủ mong có những biện pháp kịp thời để cứu lấy thị trường chứng khoán . Vậy phải chăng Chính phủ nên can thiệp vào thị trường chứng khoán , liệu có cần thiết không khi mà chúng ta phải cố gắng để cứu lấy giá trị ảo của thị trường , tại sao không để thị trường định giá lại đúng giá trị thật của nó ? Việc Vn-Index tuột dốc phần lớn là sự biến động của thị trường thứ cấp – thị trường giao dịch – chứ không phải là thị trường sơ cấp – thị trường phát hành . Thực chất , việc giá cổ phiếu đang đi xuống chỉ ảnh hưởng đến các nhà đầu tư , mà chính xác ra là các nhà đầu cơ chứng khoán chứ không tác động đến tình hình tài chính và kinh doanh của công ty niêm yết . Các nhà đầu cơ chứng khoán đã thổi giá chứng khoán lên quá cao trong năm 2006 , 2007 , đến nay cổ tức thu được từ việc đầu tư không đáng là bao so với lãi tiết kiệm ( nếu họ mang số tiền đó gửi tiết kiệm ) nên bây giờ mới chợt nhận ra là chứng khoán không phải là một thứ công cụ để đổi đời như nhiều người khác lầm tưởng . Việc thi trường điều chỉnh xuống sâu như hiện nay , nếu nhìn theo một khía cạnh khác , lại là điều không đáng lo ngại vì mọi thứ cần được định giá đúng giá trị thật , kể cả chứng khoán . Việc điều chỉnh thị trường như vậy , thậm chí sẽ giúp tháo ngòi quả bom nổ chậm , giúp thị trường của chúng ta an toàn hơn .
    Cũng có nhiều người cho rằng , giá cổ phiếu bây giờ quá rẻ để mua . Nhưng xin khẳng định rằng giá cổ phiếu không quá rẻ như mọi người nghĩ .Theo ngân hàng HSBC , chỉ số PE trên thị trường Việt Nam bây giờ là 13 , là lí tưởng để mua vào . Liệu điều này có đúng ? Trên thị trường quốc tế , lãi suất đồng USD , EUR , JPY , chỉ dao động mức 1-5% . Như vậy , nếu gửi tiền ngân hàng thì phải sau khoảng 15-20 năm mới có thể được gấp đôi ( tính lãi kép ) . Do đó , chỉ số PE vào khoảng 13 là lí tưởng ( tức là nếu đầu tư chứng khoán thì sau 13 năm sẽ thu hồi đựoc vốn gốc ban đầu và có lãI là chính chứng khoán chúng ta đang nắm giữ ) . Tuy nhiên , với lãi suất VND luôn khoảng từ 9-12% một năm , chúng ta cần gửi tiết kiệm trong vòng 8-9 năm là đã được gấp đôi . Như vậy chỉ số PE thấp hơn 8 thì đầu tư chứng khoán mới có lợi hơn gửi tiết kiệm .
    Hiện nay , Việt Nam đang hướng theo kinh tế thị trường , vậy can thiệp để cứu thi trường có phù hợp các quy luật của một nền kinh tế thị trường dựa trên quan hệ cung cầu ? Các giải pháp mà các nhầ đầu tư đưa ra đều chỉ vì quyền lợi của chính mình và đi ngược lại quy luật của thị trường . Cần hiểu rằng Nhà nước không thể can thiệp thô bạo vào nền kinh tế như vậy . Việc tạm thời đóng cửa thị trường , ngừng giao dịch là biện pháp phi thực tế và sẽ ảnh hưởng trầm trọng hơn tới nền kinh tế . Giải pháp tạm ngừng giao dịch một số chứng khoán gây bất lợi cho thị trường cũng là giải pháp tiêu cực mang tính chủ quan . Giải pháp đề nghị Nhà nước mua lại số cổ phiếu của các nhà đầu tư là phi thực tế . Ngoại trừ giải pháp giãn tiến độ IPO của các công ty nhà nước là có thể chấp nhận được . Hơn nữa , vào thời điểm này , chúng ta vẫn phải đang đối mặt với lạm phát . Lạm phát ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả mọi người từ thành thị đến nông thông và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế . Còn thị trường suy giảm chỉ tác động đến một bộ phận các nhà đầu tư . Do vậy , việc duy trì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và chống lạm phát quan trọng hơn rất nhiều việc cứu thị trường thứ cấp nhất là khi hai việc này không thể làm cùng một lúc . Chúng ta cũng cần hiểu rằng việc các nhà đầu tư thua lỗ hiện nay chỉ đơn giản là việc người này móc tiền của người kia một cách hợp lí chứ không phải do các công ty làm ăn thua lỗ trầm trọng . Như vậy cũng giống như trước đây mọi người cùng thắng lớn nhờ đầu cơ cổ phiếu chứ không phải là do các công ty làm ăn hiệu quả và do nền kinh tế phát triển đột phá .
    Và nếu ai còn nhớ thời gian trước khi xảy ra cơn sốt giá cổ phiếu , trong các năm 2002-2005 , Vn-Index chỉ dao động trong khoảng 200-300 điểm nào có thấy ai kêu cứu . Còn giờ đây , Vn-Index vẫn còn cao gấp đôi thời điểm năm 2005 . Vậy việc cứu thị trường có cấp thiết , trong thời điểm hiện nay cần ưu tiên cho việc cứu lạm phát – cứu cả nền kinh tế – chứ không phải là giá trị ảo của TTCK – lợi ích của một số cá nhân .
    Tóm lại , sau 8 năm đi vào hoạt động , TTCK Việt Nam tuy đã đạt được những thành tựu đáng kể , nhưng vẫn còn chưa thực sự ổn định , chưa hoàn thành tốt vai trò chính của mình , đó là kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế VN . Và cũng cần nhấn mạnh rằng , TTCK Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé chưa thể đại diện được cho sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế . Vì vậy không nên căn cứ vào sự lên xuống của thị trường mà vội đưa ra những kết luận không chính xác làm ảnh hưởng tới nền kinh tế VN .

    C . Một số giải pháp đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp , lối đi nào cho thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay
    I . Những yếu tố khó khăn trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp , phát triển ổn định thị trường chứng khoán

    1 . Những yếu tố khó khăn trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp
    Nhìn chung tiến trình hình thành công ty cổ phần – cổ phần hóa doanh nghiệp ở nước ta đang diễn ra tương đối khả thi , đúng hướng . Tuy nhiên , có thể nói tiến trình này vẫn còn diễn ra chậm , bất cập , chưa tương xứng với tiềm lực của quốc gia . Nguyên nhân của sự chậm trễ ấy là do đâu :
    Thứ nhất : Về nguyên nhân khách quan , cổ phần hóa là một công việc rất mới ở nước ta , khác hẳn với tiến trình tư nhân hóa của các nước trên thế giới . Do đó cần thận trọng , làm từng bước , vừa làm vừa thử nghiệm , mày mò từ đó mà rút ra kinh nghiệm, chậm nhưng chắc không thể vội vàng , quan liêu thiếu tính toán mà gây ra những hậu quả không đáng có . Hơn nữa đất nước ta còn nghèo , các doanh nghiệp nhà nước đa phần làm ăn kém hiệu quả , tập quán đầu tư mua cổ phiếu chưa chuyên nghiệp , thị trường chứng khoán đang trong quá trình phát triển và chưa thực sự ổn định . Mặt khác , đa số lãnh đạo các doanh nghiệp và người lao động còn luyến tiếc , muốn dựa vào Nhà nước . Sự bỡ ngỡ với chủ trương cổ phần hóa , cộng thêm việc cổ phần hóa ở Nga không thành công dẫn đến bần cùng hóa người lao động đã có tác động tới tâm lí lo ngại của doanh nghiệp nhà nước , từ đó do dự không muốn cổ phần hóa hoặc cổ phần hóa với tâm lí ép buộc thiếu tinh thần trách nhiệm
    Thứ hai : Nguyên nhân khách quan , có thể chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản sau :
    a . Về việc quán triệt quan điểm , chủ trương của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước của các ngành , các cấp ở cả Trung ương và địa phương chưa đầy đủ , chưa sâu rộng do một số lãnh đạo chính quyền cơ sở lo ngại cổ phần hóa làm mất vai trò của nhà nước và vai trò của nền kinh tế quốc dân , thậm chí có nơi chưa muốn cổ phần hóa ngay mà còn chờ đợi nghe ngóng . Một số cán bộ lãnh đạo của doanh nghiệp chưa thấy được sự cần thiết của việc cổ phần hóa đa số lo ngại mất quyền lợi , địa vị , người lao động lo lắng mất việc làm , thu nhập giảm , do vậy không hăng hái tiến hành cổ phần hóa . Có lẽ nguyên nhân này là nguyên nhân cơ bản nhất .
    b . Công tác chỉ dạo của Nhà nước vẫn còn nhiều vấn đề đáng bàn Một số nội dung trong văn bản chỉ đạo cổ phần hóa còn chưa rõ ràng , nhiều vấn đề chưa được khẳng định dứt khoát như : Cổ phần hóa là tự nguyện hay bắt buộc , những doanh nghiệp nào sẽ cổ phần hóa , chưa cổ phần hóa và không cổ phần hóa . Việc bán cổ phần cho người nước ngoài tuy đã có quy định , nhưng văn bản hướng dẫn cụ thể vẫn chưa được quan tâm dẫn đến việc huy động vốn bằng hình thức này tương đối lúng túng với nhiều doanh nghiệp . Bên cạnh đó việc giải quyết một số thủ tục pháp lí để tạo ra điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa tương đối chậm , như thủ tục pháp lí về đât dai , nhà xưởng , xác định vốn và chuyển vốn đối với doanh nghiệp sử dụng tài sản nhà nước cơ do nhiều cơ quan quản lí . Tóm lại quy trình cổ phần hóa vẫn còn tương đối phức tạp , lắm thủ tục , tốn kém thời gian và tiền bạc .
    c . Bộ phận chỉ đạo cổ phần hóa ở Trung ương và địa phương đều kiêm nhiệm nên không tập trung được vào công tác chỉ đạo cổ phần hóa dẫn đến công việc bị chậm trễ , kéo dài . Ban chỉ đạo Trung ương cổ phần hóa không đủ thẩm quyền quyết định trực tiếp các đề án , kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước .
    d . Một số chính sách chế độ cụ thể đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa chưa đủ sức hấp dẫn , chưa tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp hăng hái tiến hành cổ phần hóa . Cũng cần phải khẳng định các doanh nghiệp nhà nước vẫn được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước hơn các công ty cổ phần . Bên cạnh đó người lao động đa số vẫn còn nghèo , không đủ tiền mua cổ phiếu , chế độ cấp không cổ phiếu hưởng cổ tức và chế độ cho vay để mua cổ phiếu trả chậm còn quá ngặt nghèo . Cách tính giá trị doanh nghiệp , chế độ ưu đãi đối với các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa chỉ được giảm thuế lợi tức trong vòng hai năm đầu ( bất kể có lẫi hay không ) còn thấp hơn so với đầu tư nước ngoài và khuyến khích đầu tư trong nước .
    e . Huy động vốn toàn xã hội là mục tiêu chủ yếu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhưng tỉ lệ cổ phần dành cho xã hội còn quá thấp . Việc tuyên truyền phổ biến chủ trương chính sách về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cũng chưa được tiến hành sâu rộng trong nhân dân , trong người lao động doanh nghiệp nhà nước kể cả trong doanh nghiệp dự định tiến hành cổ phần hóa . Đây là sự nghiệp của toàn dân mà đại bộ phận nhân dân chưa quan tâm nên chưa thể triển khai được nhiều .
    Thực tế cũng đã chứng minh , theo số liệu của Bộ tài chính cho biết , 6 tháng đầu năm 2006 cả nước mới triển khai sắp xếp được khoảng 130 doanh nghiệp , đạt 14% kế hoạch . Trong đó , 110 DN và bộ phận DN thực hiện cổ phần hóa , bao gồm cả 40 đơn vị đã hoàn thành xác định giá trị DN ; 8 DN thực hiện giao bán ; 3 DN sát nhập ; 2 DN giải thể . Theo đánh giá của bộ tài chính , tiến độ thực hiện 6 tháng còn chậm , nhiều ý kiến cho rằng nguyên chính ở đây là do nhiều bộ , ngành địa phương tập trung chỉ đạo và ra quyết định cổ phần vào cuối thời điểm năm 2005 để được hưởng chế độ sắp xếp lao động dôi dư . Phải chăng chúng ta đã nhìn thấy trước những nguyên nhân này , mà bắt nguồn sâu xa không đâu khác là sự cải cách nửa vời của đa số các doanh nghiệp nhà nước . Thậm chí nhiều doanh nghiệp với tâm lí đối phó đã tiến hành cổ phần hóa không triệt để , không nhận thức và tận dụng cơ hội này để lột xác , tái cơ cấu lại công ty . Đã đến lúc chúng ta cần điều chỉnh lại nhận thức và cách làm , cần coi đây là cơ hội là cơ hội để có được những thay đổi về chất trong quản lí , quản trị và chiến lược phát triển doanh nghiệp , song song với đó cũng cần có thái độ nghiêm túc , tranh thủ tận dụng hết những cổ phần hóa mà cổ phần hóa doanh nghiệp mang lại .

    2 . Rào cản và trở ngại trong quá trinh ổn định , phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
    ` Có thể chỉ ra một số nguyên nhân chủ quan sau :
    a . Vẫn còn những vướng mắc từ cơ chế chính sách của Nhà nước đối với việc phát hành chứng khoán ra công chúng . Thật vậy , điều kiện phát hành còn cao , thủ tục phát hành phức tạp , thiếu cơ sở pháp lí cho những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát hành chứng khoán .
    b . Để huy động vốn trên thị trường chứng khoán các doanh nghiệp phải thực hiện những thủ tục phức tạp hơn nhiều so với thủ tục xin vay tại các tổ chức tín dụng . Cụ thể , các doanh nghiệp phảI xây dựng bản cáo bạch để công khai hóa tài chính , phương án kinh doanh Hơn nữa nhiều doanh nghiệp không muốn tiết lộ những thông tin quan trọng cho đối thủ cạnh tranh nên không mặn mà với hình thức huy động vốn trên thị trường chứng khoán .
    c . Thị trường sơ cấp hoạt động tương đối tốt , nhưng thị trường thứ cấp còn hoạt động trầm lắng , kém sôi động , tính thanh khoản không cao là nguyên nhân sâu xa dẫn đến hoạt động yếu kém của thị trường sơ cấp trong thời gian gần đây . Nguyên nhân là do việc công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm yết trong một số trường hợp không trung thực , đánh mất lòng tin của công chúng đầu tư đối với tị trường . Có thể chỉ ra một vài VD sau : Công ty đồ hộp Hạ Long CANFOCO , tổng giám đốc bị truy tố đến 6 tháng mà các nhà đầu tư trên TTCK vẫn không hề hay biết ; Công ty bánh kẹo Biên Hòa đến ngày 30/6/2003 vẫn tiếp tục trì hoãn không công bố thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh tỏng năm 2002 Còn rất nhiều sai phạm khác , thiết nghĩ cần có những biên pháp trừng phạt mạnh mẽ hơn trong thời gian tới , nhằm nâng cao tính minh bạch trên thị trường , tạo lòng tin cho giới đầu tư .
    Nguyên nhân khách quan : Có thể nói , trong năm 2007 vừa qua TTCK Việt Nam ảnh hưởng rất lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính mang tên “ bóng ma tín dụng “ ở Mỹ . Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ hoạt động cho vay có phần dễ dãi và ồ ạt - đựoc gọi là nợ dưới chuẩn – của các ngân hàng đối với người đI vay tiền mua nhà trả góp với hy vọng sau đó bán đi để kiếm lời . Sau một thời kì sốt dài , thị trường địa ốc Mỹ rơi vào tình trạng đóng băng khiến người đi vay không thể bán nhà trả nợ . Số lượng nợ xấu và khách hàng vỡ nợ cứ thế tăng lên , đẩy các tổ chức cho vay vào cảnh thua lỗ đáng sợ . Hàng loạt các ngân hàng lớn ở Phố Wall như Bear Stearns , Merrill Lynch . Citigroup , Morgan Stanley liên tiếp công bố những khoản thâm hụt tài sản nhiều tỷ USD . Bóng đen khủng hoảng không chỉ dừng lại ở Mỹ mà còn lan sang cả châu Âu , tấn công vào các ngân hàng tại châu lục này như Nothern Rock của Anh hay UBS của Thụy Sĩ . Hệ quả là cổ phiếu tài chính Mĩ liên tục lao dốc và giám đốc điều hành ( CEO ) của các tập đoàn tài chính Mĩ đã mất việc . Để cứu vãn tình hình , Cục dữ trữ Liên bang Mỹ ( FED ) , Ngân hàng Trung ương châu Âu ( ECB )và một số ngân hàng trung ương khác đã phải bơm tiền vào hệ thống tài chính để giảm áp lực vốn . Một số tập đoàn , trong đó có Citigroup , Merrill và Morgan Stanley cũng phải cầu viện sự giúp đỡ từ bên ngoài thông qua con đường bán lạic ổ phần cho các đại gia đầu tư nước ngoài . Nhiều nhà phân tích dự báo , tổng số thiệt hại của cuộc khủng hoảng gây ra cho nền kinh tế lớn nhất thế giới này có thể lên tới hàng nghìn tỷ USD .
    Cuộc khung hoảng tài chính tại Mĩ đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới TTCK Việt Nam tư, cụ thể từ đầu năm 2008 , chỉ số Vn-Index của Việt Nam không ngừng đi xuống , kéo theo đó là tình trạng lạm phát trầm trọng , rất khó để kiểm soát , Vậy nên có thể thấy rằng để ổn định và phát triển TTCK trtong nước thì không chỉ quan tâm tới diễn biến hướng nội mà còn phải thường xuyên theo dõi các động thái bên ngoài để có những điều chỉnh hợp lí , kịp thời .
    II . Giải pháp và kiến nghị
    1 . Về cổ phần hóa doanh nghiệp

    Phải thừa nhận rằng , trong tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước , chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể , có nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả gấp 5-6 lần so với khi doanh nghiệp chưa cổ phần hóa . Nhưng cũng còn nhiều doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa tình hình sản xuất kinh doanh vẫn giậm chân tại chỗ do những đơn vị này cổ phần hóa thiếu thận trọng , không tính toán kĩ khi xây dựng dự án khiến không đổi mới được mặt hàng hay công nghệ tiên tiến . Công tác tổ chức cán bộ còn nhiều cồng kềnh với bộ máy cũ hoặc dự án kêu gọi vốn cổ phần , huy động vốn chưa hiệu quả , có nhiều doanh nghiệp phải vay vốn ngân hàng trên 70% cả vốn cố định và vốn lưu động . Có một nguyên tắc đặt ra là để cổ phần hóa chúng ta phải nghĩ ngay tới vấn đề phân bố theo từng bộ , từng tỉnh, để khi cổ phần hóa có đủ các loại sản phẩm tốt cần thiết . Tránh trường hợp nhiều doanh nghiệp trong nhà nước cùng sản xuất một sản phẩm gây thừa mặt hàng này nhưng lại thiếu mặt hàng khác . Đồng thời cũng cần chú trọng phát triển nguồn nguyên liệu tại chỗ phục vụ sản xuất . Bên cạnh đó , để việc tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước nhanh và hiệu quả thiết thực , có sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế , chúng ta cần phải thống nhất chỉ đạo những việc cần làm ngay – những bước đi để đem lại hiệu quả thiết thực .
    Thật vậy , bước đi ban đầu là cần khởi động cổ phần hóa trên cơ sở chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ giao cho các bộ , tỉnh , thành phố tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước . Từng năm , các Bộ trưởng , chủ tịch UBND các tỉnh , thành phố dự kiến thông báo các doanh nghiệp Nhà nước thuộc đơn vị mình quản lí . Ngoài ra , để xây dựng dự án , cần phải thực hiện các bước tiến hành cổ phần hóa , khâu tổ chức cán bộ , đổi mới công nghệ và đào tạo cán bộ hiện có để sử dụng , nếu không trong trường hợp bắt buộc thì không nên đẩy người lao động vào tình trạng mất việc làm .
    Tiếp theo đó , các Bộ trưởng , chủ tịch UBND thành phố và các chuyên gia có kinh nghiệm phải hiểu biết về xây dựng các bước cổ phần hóa để giúp đỡ các doanh nghiệp tiến hành xây dựng dự án cổ phần hóa có bài bản , có hiệu quả kinh tế cao . Sau đó các Bộ trưởng , chủ tịch UBND tỉnh và hội đồng họp nghe cụ thể các doanh nghiệp trình bày dự án , các đại biểu tham gia kĩ sau đó bổ sung để dự án hoàn thiện tiến hành hiệu quả cao , cuối cùng là hoàn chỉnh dự án , Bộ trưởng và chủ tịch UBND thành phố phê duyệt.
    Để xây dựng một dự án cổ phần hóa doanh nghiệp phải đạt được các yêu càu cụ thể sau :
    Phải dự kiến được sản xuất tiếp mặt hàng sản xuất cũ hay phải chuyển sang sản xuất mặt hàng mới ( nếu có thì là mặt hàng gì ) , sau đó mới xác định tính toán hiệu quả kinh tế ( thị trường , nguyên vật liệu , xuất , nhập khẩu , lãi suất , ) lãi sau thuế và trích lập các quỹ, lợi tức chia cho cổ đông hàng năm .
    Khâu quan trọng nhất để dự án đạt hiệu quả kinh tế cao là khâu để cán bộ công nhân viên chức tham gia góp cổ phần . Kêu gọi các cổ đông trong nước góp cổ phần , mời chào các cổ đông nước ngoài tham gia cổ phần 30% tổng số vốn cần có của dự án .Tuy nhiên nếu chưa đạt 50% vốn tham gia thì cần phải báo cáo chính phủ . Tham gia cổ phần nhất thiết chỉ được vay ngân hàng 50% số vốn , còn lại là vốn các cổ đông góp cổ phần . Cũng cần trích lập các quỹ phát triển sản xuất , quỹ bù đắp rủi ro theo nghị quyết của hội đồng quản trị và hội đồng cổ đông . Nếu doanh nghiệp nào huy động vốn được 100% vốn cố định và vốn lưu động bằng vốn góp cổ phần thì dự án sẽ rất co hiệu quả .
    Tổ chức và đánh giá cán bộ cũng hết sức quan trọng và mang tính quyết định lâu dài . Phải chọn những cán bộ có khả năng thực sự , có chuyên môn , trình độ , phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt , đủ điều kiện để bầu vào những vị trí quan trọng . Nếu không chọn được cán bộ giỏi thì phải bầu hoặc người có cổ phần ngoài doanh nghiệp góp nhiều vốn và có trình độ chỉ đạo quản lí sản xuất kinh doanh , cũng có thể thông qua hội đồng cổ đông hay giao cho giám đốc và các thành viên của hội đồng quản trị viết những báo cáo , ý tưởng của mình trong việc điều hành , sản xuất kinh doanh , qua đó đánh giá người có khả năng , bầu chọn cán bộ giỏi
    Một biện pháp có ý nghĩa chính trị hết sức quan trọng cũng cần phải được chú ý tới , đó là phải tạo đà cho cán bộ công nhân viên chức có việc làm và có cổ phần góp trong doanh nghiệp để có tiếng nói hay được tham gia ở hội đồng cổ đông . Cán bộ công nhân viên nào cũng được khuyến khích tham gia góp cổ phần , nếu thiếu vốn có thể được nhà nước cho vay trong 5 năm , lãi suất 0,2 % một tháng , mỗi công nhân được vay tối thiểu 20 triệu đồng để góp vốn , sau 5 năm sẽ trả lãi và gốc . Nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khó khăn thì được gia hạn thêm 5 năm . Môt việc làm tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa chính trị rất lớn .
    Có một thực tế là việc đánh giá lại tài sản lưu động của doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hóa là khâu có nhiều vướng mắc . Để đảm bảo quyền lợi cho Nhà nước và quyền lợi của cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp , trước khi cổ phần hóa chúng ta phải kiểm kê lại toàn bộ tài sản . Đầu tiên là về đất đai , do nhà nước cấp hay cho thuê , thuê trong bao nhiêu năm và đã nộp thuế bao nhiêu . Thứ hai , Ban kiểm kê cần đánh giá từng tài sản cố định , từng tài sản lưu động theo giá thực tế thị trường và chất lượng thực tế của tài sản . Sau khi đã kiểm kê xong , công nợ còn lại phải có trách nhiệm trả cho ngân hàng hoặc người bán nếu có , công nợ phải thu , phải kê khai tổ chức , cá nhân nợ , số lượng tiền hay hàng hóa qui ra tiền theo giá trị mới để thu đủ , thu ngay để tiến hành cổ phần hóa được lợi nhuận .
    Các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa thuộc bộ , tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương , tiếp tục thực hiện các chủ trương , chính sách của bộ , tỉnh hướng dẫn . Theo quy định của chính phủ , các doanh nghiệp cổ phần hóa tiếp tục là thành viên kinh tế dưới sự chỉ đạo , quản lí bằng chính sách vĩ mô lớn của Đảng và Nhà nước . Các bộ , tỉnh , thành phố vẫn phải thường xuyên tạo điều kiện giúp đỡ để doanh nghiệp cổ phần hóa không ngừng phát triển bền vững . Đồng thời , cần tiếp cận để nắm vững tình hình phát triển sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp . Ban hành chính sách đổi mới phù hợp với yêu cầu của mọi doanh nghiệp cổ phần hóa . Tháo gỡ vướng mắc khó khăn kịp thời , phù hợp với nền kinh tế thi trường , ngoại giao với các nước để kí kết các hợp đồng xuất nhập khẩu . Cũng cần tạo điều kiện thông thoáng và đáp ứng các yêu cầu chính đáng của mọi thành phần kinh tế , để đẩy nhanh nền kinh tế phát triển , đủ sức cạnh tranh hòa nhập với quốc tế . Cơ chế chính sách điều hành của Chính phủ và các cơ quan pháp luật cần uyển chuyển , thông thoáng để mọi thành phần kinh tế và các doanh nghiệp Nhà nước khi tiến hành cổ phần hóa sản xuất kinh doanh phát triển . Chính phủ có thể nắm hay còn gọi là góp cổ phần 50% tổng nhu cầu vốn với điều kiện doanh nghiệp không huy động được nhiều cổ phần . Nếu doanh nghiệp huy động được nhiều cổ phần thì nhà nước chỉ tham gia các Tổng công ty lớn và cử các cán bộ có trình độ tham gia hội đồng quản trị công ty ngầm giám sát , kịp thời giúp đỡ , hiệu chỉnh các tổng công ty lớn hoạt động có hiệu quả . Nhà nước chỉ quản lí bằng chính sách vĩ mô và kiên quyết xử lí doanh nghiệp , mọi thành phần kinh tế nào sản xuất chop giật , lùa đảo , tham ô, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng . Các doanh nghiệp và mọi thành phần kinh tế có trách nhiệm làm nghĩa vụ với nhà nước đầy đủ và trích lập các quỹ theo hướng dẫn cảu bộ tài chính . Lợi tức còn lại được phân chia theo tỉ lệ góp vốn cổ phần va phân phối theo đúng nghị quyết của Hội đồng quản trị và hội đồng cổ đông .
    Bên cạnh đó cần bảo vệ quyền lợi của cán bội công nhân viên chức , các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài tai Việt Nam , công ty TNHH, đều phải có trách nhiệm mua bảo hiểm đầy đủcho người lao động . Thành phần kinh tế nào không mua bảo hiểm cho người lao động hoặc vi phạm nhân quyền , phải kiên quyết xử lí , kể cả doanh nghiệp nước ngoài sản xuất tại Việt Nam .

    2 . Về thị trường chứng khoán
    Thực tế , thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự là một kênh huy động vốn có hiệu quả . Vì vậy cần phải thực hiện một số biện pháp sau đây :
    và chính xác
    a . Tăng cường cơ chế quản lí giám sát công bố thông tin trên thị trường minh bạch giúp các nhà đầu tư có thể ra quyết định dựa trên thông tin đầy đủ , chính xác .
    b . Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lí cho thị trường , thiết lập một môi trường pháp lí ổn định , đồng bộ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cụ thể cần triển khai nghiên cứu , bổ sung và sửa đổi Luật chứng khoán theo từng giai đoạn phát triển cụ thể của thị trường . Đồng thời tăng cường tính hiệu lực của các văn bản pháp luật trong lĩnh vực hoạt động và kinh doanh chứng khoán . Đẩy mạnh công tác thanh tra , kiểm tra và xử phạt thích đáng đối với các hành vi vi phạm .
    c . Thực hiện các giải pháp tăng cung- kích cầu . Trước hết cần phát triển trọng tâm hai sàn giao dịch chứng khoán lớn tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh , dành cho các cổ phiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ để tọa ra hàng hóa đa dạng cho thị trường . Tăng số lượng Công ty niêm yết , đa dạng hóa và nâng cao tỉ trọng các Công ty lớn niêm yết , gắn việc cổ phần hóa với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán . Ngoài ra , cần xây dựng và mở rộng hoạt động của các trung gian tài chính , các tổ chức hỗ trợ phát triển thị trường . Bên cạnh đó đẩy mạnh phát hành trái phiếu chính phủ , trái phiếu công ty , trái phiếu Quỹ đầu tư . Phấn đấu đưa tổng giá thị trường chiếm khoảng 10-15% vào năm 2010 .
    d . Thiết lập một môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư , các công ty niêm yết Công ty quản lí quỹ , công ty chứng khoán miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm đầu hoạt động , không đánh thuế chênh lệch mua bán giá chứng khoán . Ngoài ra UBCKNN không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của các thành viên trên thị trường , nên thực hiện phương châm : các thành viên của thi trường được thực hiện tất cả các hoạt động mà pháp luật không cấm .
    e. Phát triển thị trường OTC . Theo kinh nghiệm của Trung Quốc , trước khi có một thị trường chứng khoán phát triển như hiện nay , Trung Quốc đã phát triển thị trường OTC khá tốt . Việc phát triển thị trường OTC một mặt nâng cao kinh nghiệm của các thành viên tham gia thị trường , mức độ quan tâm và nhận thức của công chúng . Mặt khác , thị trường OTC cũng là cơ hội tốt để tăng cung chứng khoán cho các nhà đầu tư , tạo điều kiện cho các Công ty chưa đủ điều kiện niêm yết có cơ hội tiếp cận với thị trường chứng khoán .


    Phần 3 : Lời kết

    Có thể nhận thấy với tiến trình cổ phần hóa mau lẹ như hiện nay thì chắc chắn chúng ta sẽ hoàn thành tiến độ vào năm 2009-2010 , đúng như dự kiến đã đề ra . Để rồi từ đó Việt Nam sẽ tiến tới xây dựng hoàn chỉnh bộ máy kinh tế chính trị , trở thành một nước công nghiệp phát triển vào năm 2020 . Một tương lai tươi sáng đang chờ chúng ta bước tới khám phá , chinh phục , khi ấy Việt Nam có thể ngẩng cao đầu với bạn bè trên khắp thế giới , mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày nào sẽ trở thành hiện thực . Năm 2020 , lịch sử của đất nước Việt Nam sẽ bước sang một trang mới , một thời đại mới , thời đại của công nghiệp hóa , hiện đại hóa , tự động hóa , Nhưng để có được tương lai tươi sáng ấy chúng ta phải lao động chăm chỉ với tất cả những tiềm lực đang có trong tay . Đầu tiên hãy nhìn nhận một cách khách quan hơn về những gì đang diễn ra trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp hiện nay , TTCK cũng vậy , liệu nó đã thực sự đi vào ổn định hay vẫn đang trong quá trình phát triển , luôn phập phù , lên xuống thất thường như “ một quả bong bóng mỏng manh “ có thể vỡ bất cứ lúc nào . Chúng ta vẫn còn đó những công việc ngổn ngang bề bộn , làm cách nào để cứu TTCK đang trên đà đi xuống sau hai năm phát triển quá nóng 2006 và 2007 , làm cách nào để đẩy lùi lạm phát trong thời kì kinh tế thế giới suy thoái , làm cách nào để giải quyết tất cả những vướng mắc về định giá doanh nghiệp , thay đổi nhận thức , trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp . Có rất nhiều câu hỏi , thắc mắc đặt ra cần được mau chóng giải quyết , trong khi đó đến năm 2009-2010 Việt Nam phải cơ bản hoàn thành tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp , năm 2020 Việt Nam phải trở thành một nước công nghiệp phát triển .
    Một lần nữa cần phải khẳng định , chỉ có sự chăm chỉ , không ngừng làm việc chúng ta mới có thể hoàn thành được mục tiêu đã đề ra . Tuy nhiên theo bản thân mình , em nhận định chủ quan rằng : tiến trình cổ phần hóa ở Việt Nam vào thời điểm này vẫn còn chậm , nhất là trong việc định giá và hoàn thành các vấn đề liên quan đến sở hữu đất đai , còn về thị trưòng chứng khoán dường như nhận thức trong việc đầu tư cổ phiếu của đại bộ phận dân chúng còn quá đơn giản , chạy theo xu thế đám đông . Nói một cách chính xác đa số vẫn là những nhà đầu cơ chưa nắm bắt được bản chất cung cầu của thị trường , có chăng nên nâng cao trình độ dân trí bằng những khóa học cụ thể , gần gũi với nhu cầu nắm bắt thông tin của người dân .
    Một lần nữa em xin cảm ơn các thầy cô , đặc biệt là thầy giáo GS.TS Phạm Quang Phan , người đã hướng dẫn , giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này .


    TÀI LIỆU THAM KHẢO​
    GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC- LÊNIN ( NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA -2004 )
    CHỨNG KHOÁN , NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT ( NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN - 2007)
    CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN.
    ( NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI – 1996 )
    LUẬT DOANH NGHIỆP ( NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA – 1999)
    LUẬT CHỨNG KHOÁN ( NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA – 2007)
    VÀ MỘT SỐ TÀI LIỆU SƯU TẦM KHÁC .
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...