Tiểu Luận Lý luận giá trị lao động qua quan điểm của các nhà kinh tế

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tên đề tài:
    LÝ LUẬN GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG QUA QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ​
    LỜI MỞ ĐẦU


    Môn kinh tế chính trị tư sản bắt đầu từ CN trọng thương. Sự phát triển của CNTB đã làm cho những luận điểm của CN trọng thương trở nên lỗi thời. Trọng tâm chú ý của các nhà kinh tế học ngày càng chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Chủ nghĩa trọng thương nhường chỗ cho chủ nghĩa trọng nông. Mặc dù là giai đoạn cao hơn so với chủ nghĩa trọng thương, nhưng chủ nghĩa trọng nông còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chỉ giới hạn ở lĩnh vực sản xuất trong nông nghiệp và chưa có khái niệm đúng đắn về giá trị. Chủ nghĩa trọng nông nhường chỗ cho kinh tế học chính trị tư sản cổ điển mà tiêu biểu là kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh mở đầu từ W. Petty (1622-1687) đến A. Smith (1723-1790) và kết thúc ở D. Ricardo (1772-1823). W. Petty là một trong những người sáng lập ra học thuyết kinh tế cổ điển ở Anh. A. Smith là nhà kinh tế của thời kỳ công trường thủ công của CNTB, còn Ricardo là nhà kinh tế của thời kỳ đại công nghiệp cơ khí của CNTB, là đỉnh cao lý luận của kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh. W. Petty, A. Smith và Ricardo là những đại biểu lớn nhất cho kinh tế học chính trị cổ điển Anh. Lý thuyết giá trị lao động là một trong những lý thuyết quan trọng của các nhà kinh tế tư sản cổ điển Anh. Qua đánh giá các điểm giá trị khoa học và hạn chế của W. Petty, A. Smith và Ricardo trong lý luận giá trị lao động để ta thấy được Mác đã kế thừa và phát triển tư tưởng của họ như thế nào.


    NỘI DUNG


    1. W. Petty


    W. Petty có công lao trong việc nêu ra nguyên lý giá trị lao động. Trong tác phẩm “Bàn về thuế khóa và lệ phí” viết năm 1662 khi nghiên cứu về giá cả thì Petty đã chia thành hai hình thức giá cả: giá cả chính trị và giá cả tự nhiên.


    Ông viết: một người nào đó trong thời gian lao động khai thác được một ounce bạc và cùng thời gian đó sản xuất được một barrel lúa mì, thì một ounce bạc là giá cả tự nhiên của một barrel lúa mì. Nếu nhờ những mỏ mới giàu quặng hơn, nên cùng một thời gian lao động đó, bây giờ khai thác được 2 ounce bạc thì 2 ounce bạc là giá cả tự nhiên của 1 barrel lúa mì. Như vậy, ông đi đến kết luận giá cả tự nhiên phản ánh lượng lao động hao phí của con người trong việc sản xuất ra sản phẩm sẽ quyết định giá trị của sản phẩm. Hay ông khẳng định lao động là cội nguồn của giá trị.
     
Đang tải...