Luận Văn Lý luận cơ bản về vốn huy động và kế toán vốn huy động của ngân hàng thương mại

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    169
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VỐN HUY ĐỘNG VÀ KẾ TOÁN VỐN HUY ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

    Ngân Hàng thương mại(NHTM) là loại hình doanh nghiệp đặc biệt thực hiện kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tức là nguồn vốn của NHTM chủ yếu là nguồn vốn huy động từ nền kinh tế thông qua các cá nhân, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Do đó vấn đề huy động vốn như thế nào cho hợp lý, đồng thời quản trị tài chính, phân bổ sử dụng, bảo đảm và phát triển vốn như thế nào để đảm bảo hoạt động kinh doanh ngân hàng an toàn và đạt hiệu quả cao là lẽ sống còn đối với mỗi ngân hàng, đặc biệt trong điều kiện vô cùng phức tạp của nền kinh tế thị trường hiện nay.
    Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ hạch toán kinh doanh, nên mọi giao dịch kinh doanh của các tổ chức kinh tế đều thông qua thị trường. Vì vậy, trong điều kiện biến động vô cùng phức tạp của nền kinh tế thị trường "Đặc biệt là sự biến động hết sức nhạy cảm của tiền tệ". Hoạt động kinh doanh của NHTM nói chung, hoạt động huy động vốn nói riêng được quy định tại các điều khoản sau:
    Điều 1 khoản 1 Pháp lệnh số 38, ngày 25/5/1990 về Ngân Hàng, hợp tác xã tín dụng và Công ty Tài chính quy định "NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng, với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".
    Điều 20: Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/1998 quy định :
    " . Ngân Hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân Hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình Ngân hàng gồm: NHTM, NHPT, NHĐT, NHCS , NHHTX và các loại hình Ngân Hàng khác".
    Lúc đầu hoạt động Ngân Hàng chỉ đơn giản là các dịch vụ đổi tiền, các dịch vụ này rất đơn giản nó chỉ phù hợp với buổi bình minh của nền sản xuất hàng hóa. Ngày nay khi nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ cao của nền kinh tế hàng hoá thì Ngân Hàng có một vị trí và nắm giữ vai trò vô cùng quan trọng. Ngoài chức năng thông thường của mình, Ngân Hàng còn là công cụ để Nhà nước thực thi các chính sách tiền tệ kinh tế vĩ mô quản lý và điều tiết nền kinh tế có hiệu quả. Hệ thống Ngân Hàng là bộ máy tuần hoàn của nền kinh tế quốc dân. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển với tốc độ cao nếu có hệ thống Ngân Hàng phát triển ổn định và vững mạnh, không thể có nền kinh tế tăng trưởng nhanh khi hệ thống tổ chức và hoạt động Ngân Hàng yếu kém, lạc hậu. Nhưng Ngân Hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, là loại hình doanh nghiệp tự chủ tài chính rất thấp vì vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ trong nguồn vốn và là loại hình kinh doanh có nhiều rủi ro, là ngành kinh doanh được tổ chức theo hệ thống mạng liên hệ chặt chẽ với nhau. Tất cả mọi vấn đề về an toàn trong kinh doanh, đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo mục tiêu hoạt động “Khả năng sinh lời” và hoạt động quản trị đều được đặt dưới sự giám sát, kiểm soát bằng hệ thống văn bản pháp quy chặt chẽ của Nhà nước nói chung, Ngân Hàng nói riêng. Bởi sự rủi ro trong thanh toán dẫn đến khủng hoảng "phá sản" của một Ngân Hàng sẽ kéo theo rủi ro trên toàn hệ thống, dẫn đến khủng hoảng kinh tế tài chính của một Quốc gia. Điều đó đã phản ánh rõ nét vai trò hết sức to lớn của nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn huy động trong quá trình hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân Hàng .


    I. NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TRONG HOẠT ĐỘNG kinh doanh CỦA NHTM.
    1. Các hoạt động chủ yếu để huy động vốn.
    1.1. Nhân tố ảnh hưởng:
    1.1.1. Nhân tố mang tính khách quan:
    - Điều kịên kinh tế: "Những biến động của nền kinh tế mang tính chu kỳ".
    Khi nền kinh tế phát triển ổn định, đảm bảo được giá trị của đồng tiền từ đó tiền gửi của khách hàng vào Ngân Hàng được bảo toàn, tạo được sự yên tâm về tâm lý cho khách hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân Hàng thu hút được mọi nguồn vốn, mở ra tiềm năng và mở rộng phạm vi đầu tư, lĩnh vực kinh doanh cho NHTM. Khi nền kinh tế phát triển ổn định, các doanh nghiệp cũng gặp thuận lợi trong quá trình sản xuất kinh doanh, sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ nhanh chóng. Doanh nghiệp có doanh thu, tăng lợi nhuận, qua đó khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đảm bảo, tạo ra môi trường an toàn và lành mạnh cho hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng thương mại.
    Ngược lại khi nền kinh tế phát triển không ổn định, sản xuất bị đình trệ, nhân công bị thất nghiệp, lạm phát gia tăng . Các doanh nghiệp gặp khó khăn và rủi ro trong sản xuất kinh doanh. Các tầng lớp dân cư sẽ mất lòng tin vào giá trị của đồng tiền . sẽ dẫn tới mất an toàn và rủi ro cho đồng vốn kinh doanh của NHTM và khả năng huy động vốn của Ngân Hàng cũng bị thu hẹp.
    - Cơ chế chính sách pháp luật của Nhà nước.
    Cơ chế chính sách pháp luật của Nhà nước chặt chẽ, đồng bộ các định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước mang tính ổn định lâu dài sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo ra sự ổn định về tâm lý cho các nhà đầu tư . qua đó giúp NHTM mở rộng được thị trường huy động vốn, cũng như thị trường đầu tư kinh doanh và ngược lại.
    - Các nhân tố khác: như điều kiện chính trị xã hội, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, phong tục tập quán v.v.


    1.1.2. Nhân tố mang tính chủ quan.
    - Hình thức huy động vốn phải đa dạng, phong phú mang tính đơn điệu để tạo cho khách hàng quyền được lựa chọn phương thức gửi tiền, có như vậy mới thu hút được nhiều khách hàng.
    - Các chính sách về lãi suất, chính sách về khách hàng, các chính sách liên quan đến việc hoạch định chiến lược trong huy động vốn phải linh hoạt, phù hợp, có như vậy mới thích nghi được với sự thay đổi của nền kinh tế thị trường.
    - Về chiến lược con người: Các NHTM phải lựa chọn cán bộ, bố trí cán bộ sao cho có sự phù hợp giữa năng lực chuyên môn và tính chất của công việc để đáp ứng được các đòi hỏi của khách hàng về các nhu cầu mà khách hàng mong muốn.
    - Về công nghệ Ngân Hàng: Công nghệ Ngân Hàng hiện đại, tiên tiến sẽ giúp cho Ngân Hàng giảm được chi phí trong huy động vốn đồng thời tạo thuận lợi cho khách hàng khi sử dụng. Đảm bảo được yêu cầu trong kinh doanh Ngân Hàng nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và hiệu quả.


    1.2. Các hoạt động chủ yếu để huy động vốn.
    1.2.1. Nhận tiền gửi.
    - Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi mà người gửi tiền có quyền rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và Ngân Hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Đây là nguồn vốn có tính ổn định thấp, song chi phí huy động vốn lại tương đối rẻ. Hầu hết nguồn vốn này được sử dụng vào mục đích thanh khoản, sử dụng rất hạn chế cho vay và đầu tư.
    - Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là khoản tiền gửi được xác định thời hạn rút tiền. Đại bộ phận nguồn vốn này có nguồn gốc từ tích luỹ và mục đích gửi tiền là hưởng lãi. Đây là nguồn vốn không được sử dụng cho mục đích thanh khoản và về nguyên tắc thì khách hàng không được phép rút tiền khi chưa đến hạn, song thực tế thì Ngân Hàng cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn khi họ có nhu cầu, nhưng với điều kịên họ chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn.


    1.2.2. Nhận tiền gửi tiết kiệm.
    Đây là khoản tiền "Phần thu nhập" tạm thời nhàn rỗi của cá nhân, người lao động chưa sử dụng cho mục đích tiêu dùng, nên họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền an toàn và được hưởng một khoản lãi trên khoản tiền đó. Nhận tiền gửi tiết kiệm là hoạt động huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư "Người lao động" để đầu tư vào các khu vực kinh tế khác. Đây chính là hoạt động chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong huy động vốn của NHNo và PTNT Việt Nam. Vì tiêu chí hoạt động của Ngân Hàng là phục vụ khu vực nông nghiệp.


    1.2.3. Phát hành giấy tờ có giá.
    Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi và nhận tiền gửi tiết kiệm, các NHTM còn thực hiện phát hành giấy tờ có giá như : Chứng chỉ tiền gửi, Kỳ phiếu, Trái phiếu, để huy động vốn. Trong đó Chứng chỉ tiền gửi là phiếu nhận nợ ngắn hạn với mệnh giá đã được quy định, Trái phiếu là giấy nhận nợ trung và dài hạn. Tuy nhiên phát hành trái phiếu là hình thức huy động vốn có chi phí cao ( lãi suất cao) vì đây là hoạt động huy động vốn chỉ được tiến hành khi Ngân Hàng thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đáp ứng đủ.
    2. Nguồn vốn huy động.
    2.1. Khái niệm:



     
Đang tải...