Luận Văn Lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI : Lý luận cơ bản về bảo hiểm nhân thọ


    CHƯƠNG I
    NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN DOANH THU_ CHI PHÍ VÀ XĐKQ CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ
    I.TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM
    I.1. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của Bảo Hiểm
    Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những nguy cơ bất ngờ xảy ra, các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân như:
    Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, rét, hạn .
    Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật: tai nạn ô tô, hàng không, tai nạn lao động v v
    Các rủi ro do môi trường xã hội: thất nghiệp, trộm cắp, bệnh tật v.v
    Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại tài sản, làm ngưng trệ sản xuất kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân v.v làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung.
    Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả mà rủi ro gây ra. Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân.
    I.2. Những đặc trưng cơ bản của bảo hiểm
    Hoạt động của bảo hiểm vừa có tính kinh tế vừa có tính xã hội, vừa mang đặc trưng của một nghành dịch vụ đặc biệt.
    Tính kinh tế biểu hiện qua mối quan hệ giữa người tham gia với quỹ dự trữ bảo hiểm. Người tham gia nộp vào quỹ dự trữ dưới hình thức phí bảo hiểm; người bảo hiểm sử dụng quỹ đó để trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại cho người tham gia, nếu thiệt hại đó thuộc phạm vi rủi ro bảo hiểm. Mặt khác, người bảo hiểm sử dụng quỹ dự trữ đầu tư phát triển kinh tế xã hội, để tăng tích luỹ theo ngân sách v.v
    Tính xã hội của bảo hiểm thể hiện tính cộng đồng, tính nhân đạo của bảo hiểm. Bảo hiểm hoạt động trên nguyên tắc số đông bù số ít, do đó bảo hiểm phải thu hút số đông người tham gia; phải xâm nhập vào mọi hoạt động trong nền kinh tế. Tính xã hội còn thể hiện trách nhiệm của xã hội đối với các thành viên của xã hội, như trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động v.v
    Bảo hiểm là ngành dịch vụ đặc biệt với những đặc trưng cơ bản sau:
    + Sản phẩm vô hình: Nhà bảo hiểm bán các cam kết hay lời hứa về sự đảm bảo cho khách hàng.
    + Chu trình sản xuất ngược: Giá thành sản phẩm hoàn thành sau khi thời hạn bảo hiểm kết thúc, hay giá thành xác định được sau khi có giá bán sản phẩm.
    + Tâm lý người mua hàng: Nhằm đảm bảo yên tâm tinh thần mà không mong muốn lợi ích của sản phẩm, vì không momg có các sự kiện rủi ro xảy ra.
    + Người tiêu dùng không mong muốn tiêu dùng hàng hoá này trừ một số loại hình của bảo hiểm nhân thọ.
    I.3. Hệ thống tổ chức Bảo Hiểm ở Việt Nam
    Căn cứ tính chất hoạt động, bảo hiểm chia thành BHXH, BHYT và BH thương mại. Trong đó, BHXH và BHYT do Nhà nước tổ chức và quản lý thống nhất, thường do một cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ) chịu trách nhiệm.
    Bảo hiểm thương mại trực thuộc Bộ tài chính quản lý. Mô hình tổ chức chủ yếu là Tổng Công ty, công ty của các thành phần kinh tế ở các tỉnh, thành phố lớn. Tuỳ theo khả năng phát triển, các Tổng Công ty, công ty thành lập văn phòng đại diện ở các địa phương và tổ chức mạng lưới đại lý tiếp cận với khách hàng.
    Thị trường bảo hiểm thương mại Việt Nam thực sự sôi động sau khi có Nghị định 100/CP của chính phủ về kinh doanh bảo hiểm.
    II. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ
    Theo tiêu thức rủi ro bảo hiểm, bảo hiểm con người được chia thành 2 loại: Bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm con người phi nhân thọ.
    + Bảo hiểm con người phi nhân thọ là loại hình bảo hiểm chỉ liên quan đến các rủi ro như: Bệnh tật, tai nạn, mất khả năng lao động, và cả tử vong. Đặc điểm của loại này là không liên quan đến tuổi thọ của con người.
    + Bảo hiểm nhân thọ: Là loại hình bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có liên quan đến tuổi thọ của con người.
    II.1. Khái niệm bảo hiểm nhân thọ: Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia hoặc người thụ hưởng quyền bảo hiểm một số tiền thoả thuận khi có sự kiện định trước xảy ra liên quan đến sinh mạng và sức khoẻ của con người, còn người bảo hiểm tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, Bảo hiểm Nhân thọ là quá trình bảo hiểm rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
    II.2. Các loại hình sản phẩm Nhân thọ cơ bản
    Bảo hiểm Nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau. Do vậy, người bảo hiểm đã thực hiện đa dạng hoá các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, thực chất là đa dạng hoá các loại hợp đồng nhằm đáp ứng và thoả mãn mọi nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Có 3 loại hình Bảo hiểm Nhân thọ cơ bản:
    + Bảo hiểm trong trường hợp sống: (còn gọi là bảo hiểm sinh kỳ) nhằm chi trả cho người tham gia bảo hiểm một số tiền trợ cấp hay số tiền bảo hiểm, nếu đến một thời điểm nào đó được ấn định trong hợp đồng mà người được bảo hiểm vẫn còn sống như bảo hiểm tiền trợ cấp hưu trí, bảo hiểm niên kim nhân thọ .v.v.
    + Bảo hiểm trong trường hợp tử vong: Nhằm chi trả cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm nếu người được bảo hiểm chết tại một thời điểm được ấn định hoặc chết vào bất kỳ thời điểm nào tuỳ thuộc sự cam kết trong hợp đồng như bảo hiểm tử kỳ( bảo hiểm tạm thời hay bảo hiểm sinh mạng có thời hạn), bảo hiểm nhân thọ trọn đời ( bảo hiểm trường sinh )
    + Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp: Nhằm chi trả cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm số tiền trợ cấp hay số tiền bảo hiểm, nếu người được bảo hiểm hay người tham gia bảo hiểm sống đến một thời điểm quy định hay chết trước tại một thời điểm quy định trong hợp đồng. Thực chất bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là loại hình bảo hiểm cùng một lúc bảo hiểm cho cả hai sự kiện “sống” và “chết” của người được bảo hiểm.
    + Các điều khoản bảo hiểm bổ sung: Khi triển khai các loại hình bảo hiểm nhân thọ, nhà bảo hiểm còn nghiên cứu, đưa ra các điều khoản bổ sung để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân.
    II.3. Một số khái niệm liên quan đến Bảo hiểm Nhân thọ.
    + Người được bảo hiểm(NĐBH): Là người mà sinh mạng và cuộc sống của họ được bảo hiểm theo điều khoản của hợp đồng, có tên trong giấy yêu cầu bảo hiểm và phụ lục của hợp đồng bảo hiểm.
    + Người tham gia bảo hiểm(NTGBH): Là cá nhân hoặc tổ chức yêu cầu bảo hiểm, kê khai giấy yêu cầu, ký kết hợp đồng và nộp phí bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm có thể là: Người được bảo hiểm hoặc người có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với NĐBH.
    + Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm(NĐHQLBH): Là người được nhận STBH hoặc hưởng quyền lợi bảo hiểm quy định trong hợp đồng bảo hiểm khi có sự kiện được bảo hiểm xảy ra. NĐHQLBH có thể là người được bảo hiểm, người do người tham gia bảo hiểm chỉ định với sự đồng ý của người được bảo hiểm hoặc người kế thừa hợp pháp của NĐBH.
    + Phí bảo hiểm: Là số tiền mà người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ phải thanh toán cho công ty bảo hiểm để thực hiện cam kết trong hợp đồng bảo hiểm.
    + Giá trị giải ước: Là số tiền mà người tham gia bảo hiểm được nhận theo các quy định trong điều khoản của hợp đồng khi người tham gia bảo hiểm yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng trước khi đáo hạn hợp đồng hoặc khi hợp đồng chấm dứt hiệu lực.

     
Đang tải...