Luận Văn Lý luận chung về lợi nhuận và những lý thuyết về vốn đầu tư nước ngoài (FDI )

Thảo luận trong 'Tài Chính Thuế' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Năm 1960 Mac. Dougall đã đề xuất một mô hình lý thuyết, phát triển từ
    những lý thuyết chuẩn của Hescher Ohlin - Samuaelson về sự vận động vốn. Ông
    cho rằng luồng vốn đầu tư sẽ chuyển từ nước lãi suất thấp sang nước có lãi suất
    cao cho đến khi đạt được trạng thái cân bằng (lãi suất hai nước bằng nhau). Sau
    đầu tư, cả hai nước trên đều thu được lợi nhuận và làm cho sản lượng chung của
    thế giới tăng lên so với trước khi đầu tư.
    Lý thuyết này được các nhà kinh tế thừa nhận những năm 1950 dường như
    phù hợp với lý thuyết. Nhưng sau đó, tình hình trở nên thiếu ổn định, tỷ suất đầu
    tư của Mỹ giảm đi đến mức thấp hơn tỷ suất trong nước, nhưng FDI của Mỹ ra
    nước ngoài vẫn tăng liên tục. Mô hình trên không giải thích được hiện tượng vì
    sao một số nước đồng thời có dòng vốn chảy vào, có dòng vốn chảy ra; không
    đưa ra được sự giải thích đầy đủ về FDI. Do vậy, lý thuyết lợi nhuận cận biên chỉ
    có thể được coi là bước khởi đầu hữu hiệu để nghiên cứu FDI.
    1.2. Lý thuyết chu kỳ sản phẩm (Vernon, 1966):
    Lý thuyết chu kỳ sản phẩm do nhà kinh tế học Vernon đề xuất vào năm
    1966. Theo lý thuyết này thì bất kỳ một công nghệ sản phẩm mới nào đều tiến
    triển theo 3 giai đoạn: (1) Giai đoạn phát minh và giới thiệu; (2) Giai đoạn phát
    triển qui trình và đi tới chín muồi; (3) Giai đoạn chín muồi hay được tiêu chuẩn
    hoá. Trong mỗi giai đoạn này các nền kinh tế khác nhau có lợi thế so sánh trong
    việc sản xuất những thành phần khác nhau của sản phẩm. Quá trình phát triển
    kinh tế, nó được chuyển dịch từ nền kinh tế này sang nền kinh tế khác.
    Giả thuyết chu kỳ sản xuất giải thích sự tập trung công nghiệp hoá ở các
    nước phát triển, đưa ra một lý luận về việc hợp nhất thương mại quốc tế và đầu tư
    quốc tế giải thích sự gia tăng xuất khẩu hàng công nghiệp ở các nưóc công nghiệp

    5
    hoá. Tuy nhiên, lý thuyết này chỉ còn quan trọng đối với việc giải thích FDI của
    các công ty nhỏ vào các nước đang phát triển.
    1.3. Những lý thuyết dựa trên sự không hoàn hảo của thị trường
    1.3.1. Tổ chức công nghiệp (hay còn gọi là lý thuyết thị trường độc quyền):
    Lý thuyết tổ chức công nghiệp do Stephen Hymer và Charles Kindleberger
    nêu ra. Theo lý thuyết nay, sự phát triển và thành công của hình thức đầu tư liên
    kết theo chiều dọc phụ thuộc vào 3 yếu tố: (1) quá trình liên kết theo chiều dọc
    các giai đoạn khác nhau của hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm giảm bớt chi
    phí sản xuất; (2) việc sản xuất và khai thác kỹ thuật mới; (3) cơ hội mở rộng hoạt
    động ra đầu tư nước ngoài có thể tiến hành được do những tiến bộ trong ngành
    giao thông và thông tin liên lạc.
    Chiến lược liên kết chiều dọc của các công ty đa quốc gia là đặt các công
    đoạn sản xuất ở những vị trí khác nhau trên phạm vi toàn cầu, nhằm tận dụng lợi
    thế so sánh ở các nền kinh tế khác nhau, hạ thấp giá thành sản phẩm thông qua
    sản xuất hàng loạt và chuyên môn hoá, tăng khả năng cạnh tranh của công ty trên
    thị trường.
    Cách tiếp cận của Hymer đã được các nhà kinh tế Graham và Krugman sử
    dụng (1989) để giải thích cho sự tăng lên của FDI vào nước Mỹ trong những năm
    gần đây (khi mà họ đã đánh mất những lợi thế đã có cách đây 20 năm).
    Giả thuyết của tổ chức công nghiệp chưa phải là giả thuyết hoàn chỉnh về
    FDI. Nó không trả lời được câu hỏi: vì sao công ty lại sử dụng hình thức FDI chứ
    không phỉa là hình thức sản xuất trong nước rồi xuất khẩu sản phẩm hoặc hình
    thức cấp giấy phép hoặc bán những kỹ năng đặc biệt của nó cho các công ty nước
    sở tại.
    1.3.2. Giả thuyết nội hoá:
    Giả thuyết này giải thích sự tồn tại của FDI như là kết quả của các công ty
    thay thế các giao dịch thị trường bằng các giao dịch trong nội bộ công ty để tránh
    sự không hoàn hảo của các thị trường.

    6
    1.4. Mô hình “đàn nhạn” của Akamatsu:
    Mô hình “đàn nhạn” của sự phát triển công nghiệp được Akamatsu đưa ra
    vào những năm 1961 -1962. Akamatsu chia quá trình phát triển thành 3 giai đoạn:
    (1) sản phẩm được nhập khẩu từ nước ngoài để phục vụ cho nhu cầu trong nước;
    (2) sản phẩm trong nước tăng lên để thay thế cho nhập khẩu; sản xuất để xuất
    khẩu, FDI sẽ thực hiện ở giai đoạn cuối để đối mặt với sự thay đổi về lợi thế
    tương đối.
    Ozawa là người tiếp theo nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và mô hình
    “đàn nhạn”. Theo ông, một ngành công nghiệp của nước đang phát triển có lợi
    thế tương đối về lao động, sẽ thu hút FDI vào để khai thác lợi thế này. Tuy nhiên
    sau đó tiền lương lao động của ngành này dần dần tăng lên do lao động của địa
    phương đã khai thác hết và FDI vào sẽ giảm đi. Khi đó các công ty trong nước
    đầu tư ra nước ngoài (nơi có lao động rẻ hơn) để khai thác lợi thế tương đối của
    nước này. Đó là quá trình liên tục của FDI. Mô hình đã chỉ ra quá trình đuổi kịp
    của các nước đang phát triển: khi một nước đuổi kịp ở nấc thang cuối cùng của
    một ngành công nghiệp từ kinh tế thấp sang kỹ thuật cao thì tỷ lệ FDI ra sẽ lớn
    hơn tỷ lệ FDI vào. Một quốc gia đứng đầu trong đàn nhạn, đến một thời điểm
    nhất định sẽ trở nên lạc hậu và nước khác sẽ thay thế vị trí đó.
    Đóng góp đáng kể của mô hình này là sự tiếp cận “động” với FDI trong
    một thời gian dài, gắn với xu hướng và quá trình của sự phát triển, có thể áp dụng
    để trả lời câu hỏi: vì sao các công ty thực hiện FDI, đưa ra gợi ý đối với sự khác
    nhau về lợi thế so sánh tương đối giữa các nước dẫn đến sự khác nhau về luồng
    vào FDI.
    Tuy nhiên, mô hình “đàn nhạn” chưa thể trả lời các câu hỏi vì sao các công
    ty lại thích thực hiện FDI hơn là xuất khẩu hoặc cung cấp kỹ thuật của mình, và
    không dùng nó để giải thích vì sao FDI lại diễn ra giữa các nước tương tự về các
    nhân tố và lợi thế tương đối, vì sao FDI lại diễn ra từ khu vực kinh tế này sang
    khu vực kinh tế khác. Vấn đề quan trọng hơn là mô hình này lờ đi vai trò của
    nhân tố cơ cấu kinh tế và thể chế.
    1.5. Lý thuyết chiết trung hay mô hình OLI:
    Theo Dunning một công ty dự định tham gia vào các hoạt động FDI cần có
    3 lợi thế: (1) Lợi thế về sở hữu (Ownership advantages - viết tắt là lợi thế O - bao
    gồm lợi thế về tài sản, lợi thế về tối thiểu hoá chi phí giao dịch); (2) Lợi thế về

    7
    khu vực (Locational advantages - viết tắt là lợi thế L - bao gồm: tài nguyên của
    đất nước, qui mô và sự tăng trưởng của thị trường, sự phát triển của cơ sở hạ
    tầng, chính sách của Chính phủ) và (3) Lợi thế về nội hoá (Internalisation
    advantages - viết tắt là lợi thế I - bao gồm: giảm chi phí ký kết, kiểm soát và thực
    hiện hợp đồng; tránh được sự thiếu thông tin dẫn đến chi phí cao cho các công ty;
    tránh được chi phí thực hiện các bản quyền phát minh, sáng chế).
    Theo lý thuyết chiết trung thì cả 3 điều kiện kể trên đều phải được thoả
    mãn trước khi có FDI. Lý thuyết cho rằng: những nhân tố “đẩy” bắt nguồn từ lợi
    thế O và I, còn lợi thế L tạo ra nhân tố “kéo” đối với FDI. Những lợi thế này
    không cố định mà biến đổi theo thời gian, không gian và sự phát triển nên luồng
    vào FDI ở từng nước, từng khu vực, từng thời kỳ khác nhau. Sự khác nhau này
    còn bắt nguồn từ việc các nước này đang ở bước nào của quá trình phát triển và
    được Dunning phát hiện vào năm 1979.
    1.6. Lý thuyết về các bước phát triển của đầu tư (Investment Development Path -
    IDP):
    Theo lý thuyết này, quá trình phát triển của các nước được chia ra thành 5
    giai đoạn:
    Giai đoạn 1: lợi thế L của một nước ít hấp dẫn, luồng vào FDI không đáng
    kể do hạn chế của thị trường trong nước: thu nhập thấp, cơ sở hạ tầng lạc hậu,
    giáo dục yếu kém, lao động không có kỹ năng và hiếm khi thấy luồng ra FDI.
    Giai đoạn 2: luồng vào của FDI bắt đầu tăng do lợi thế L đã hấp dẫn các
    nhà đầu tư: sức mua trong nước bắt đầu tăng, cơ sở hạ tầng đã được cải thiện
    FDI trong bước này chủ yếu là đầu tư vào sản xuất để thay thế nhập khẩu và
    những ngành khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc sản xuất ra nguyên vật liệu,
    sản phẩm sơ chế. Luồng ra của FDI trong giai đoạn này không đáng kể.
    Giai đoạn 3: luồng vào của FDI bắt đầu giảm và luồng ra lại bắt đầu tăng.
    Khả năng kỹ thuật của nước sở tại đã tiến tới sản xuất sản phẩm được tiêu chuẩn
    hoá. Mặt khác lợi thế về lao động giảm dần, nên phải chuyển đầu tư sang những
    nước có lợi thế tương đương đối về lao động nhằm tìm kiếm thị trường hoặc
    giành những tài sản chiến lược để bảo vệ lợi thế O. Trong giai đoạn này, luồng
    vào của FDI tập trung vào những ngành thay thế nhập khẩu có hiệu quả
    KẾT LUẬN
    uy có ít dự án và số vốn đầu tư chưa thật cao khi so sánh với tiềm năng kinh tế
    của mình, nhưng đầu tư trực tiếp của Liên minh châu Âu EU đã có những đóng
    góp tương đối quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Các
    dự án của EU cũng có những dự án rất lớn và những dự án này đang tập trung
    trong những lĩnh vực rất rất quan trọng như lĩnh vực thông tin, hay lĩnh vực dầu
    khí hoặc ngân hàng - tài chính. Đó chính là những lĩnh vực nòng cốt của nền kinh
    tế nước ta khi nước ta tiến lên xây dựng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
    Đồng thời nó cũng đã góp phần tạo công ăn việc làm cùng với việc chuyển đổi cơ
    cấu nền kinh tế của ta theo hướng tiến bộ. Chính vì vậy, bên cạnh việc thắt chặt
    mối quan hệ hợp tác hữu nghị để thu hút nguồn vốn đầu tư ngày càng tăng hơn
    nữa, chúng ta cần phải quản lý và sử dụng nguồn vốn này thật sự có hiệu quả để
    đóng góp cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những nội
    dung chính của đề tài này
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...