Luận Văn Lý luận chung về cho vay và rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY VÀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

    CHƯƠNG I
    LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY VÀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


    1.1. Ngân hàng và nghiệp vụ cho vay của ngân hàng
    1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
    Trên thế giới, nghề ngân hàng được hình thành từ rất sớm, hình thức sơ khai của ngân hàng xuất hiện từ thời kỳ tiền tư bản, cùng với thời gian các hình thức hoạt động của nó ngày càng được thay đổi cho phù hợp với sự phát triển của sản xuất và trao đổi của hàng hoá. Khi mà nền sản xuất phát triển hàng hoá được tạo ra nhiều làm nảy sinh quan hệ trao đổi hàng hoá. Khi quan hệ trao đổi hàng hoá phát triển vượt ra khỏi ranh giới giữa các vùng sử dụng các loại đồng tiền khác nhau nó làm nảy sinh khó khăn trong thanh toán giữa các đồng tiền khác nhau. Khi đó, những thương gia giàu có và thông minh nhất đã nắm được cơ hội này và chuyển sang nghề buôn tiền: Họ thực hiện các nghiệp vụ về nhận tiền gửi, thu đổi tiền và bảo quản tiền (cho khách hàng) và có thu phí của người gửi. Cùng với việc nhận tiền gửi các nhà ngân hàng dần dần còn thực hiện cả nghiệp vụ thanh toán cho khách hàng (người gửi tiền), nghiệp vụ cho vay nảy sinh khi xuất hiện những người có nhu cầu vay để mở rộng sản xuất kinh doanh trong khi các nhà ngân hàng lại có sẵn trong két những khoản tiền lớn không sinh lời. Khi cho vay các nhà ngân hàng được nhận các khoản trả tiền lãi từ người vay tiền. Chính vì các khoản thu này đã khuyến khích các ngân hàng muốn nhận được nhiều tiền gửi để cho vay và họ đã chuyển từ việc thu phí người gửi tiền sang việc miễn phí tiền gửi thậm chí còn trả cho người gửi tiền một khoản tiền gọi là lãi tiền gửi. Khi mà tồn tại các nghiệp vụ cho vay, thanh toán và nhận tiền gửi có thể nói ngân hàng đã được hình thành.
    1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại (NHTM)
    Khi nghiên cứu về NHTM các nhà kinh tế đã đưa ra rất nhiều quan điểm khác nhau về NHTM. Có ý kién cho rằng: "NHTM là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay", có ý kiến lại cho rằng: "NHTM là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở tài khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc". Sở dĩ có nhiều quan điểm khác nhau về NHTM là do các nghiệp vụ của ngân hàng rất đa dạng, các thao tác của từng nghiệp vụ ngân hàng lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế. Mặt khác do tập quán, luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau đã dẫn đến những quan niệm khác nhau về NHTM.
    Còn theo luật ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính của Việt Nam ban hành ngày 24/5/1990 thì: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".
    Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác. Thông qua các nghiệp vụ NHTM đã chứng tỏ được sự cần thiết của hệ thống ngân hàng trong phát triển nền kinh tế thị trường, ngân hàng là đòn bảy của nền kinh tế.
    1.1.1.2. Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM
    - Nghiệp vụ huy động vốn: Đây là nghiệp vụ cơ bản của NHTM. Nó quyết định quy mô cũng như hiệu quả của các hoạt động khác của NHTM. NHTM có thể huy động vốn nhàn rỗi của nền kinh tế bằng nhiều hình thức khác nhau như: nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh tế, phát hành trái phiếu, kì phiếu và phát hành các chứng từ tiền hay vay vốn của NHNN hoặc các tổ chức tín dụng khác.
    Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM còn phụ thuộc đáng kể vào vốn tự có của ngân hàng và những quy định cụ thể của nhà nước về tỉ lệ giữa vốn chủ sở hữu với vốn huy động thông qua tỉ lệ này NHNN đã hạn chế được một số rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước Việt Nam các NHTM không được phép huy động quá 20 lần số vốn tự có.
    - Nghiệp vụ cho vay và đầu tư: Đây là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các NHTM cũng là hoạt động chủ yếu mang lại thu nhập cho các NHTM. Để thực hiện nghiệp vụ này NHTM sử dụng phần lớn là số vốn mà ngân hàng huy động được từ nền kinh tế để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế thông qua hình thức cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, đầu tư chứng khoán, góp vốn tham gia, hay tự đầu tư vào các dự án mang lại lợi nhuận.
    Thông qua các nghiệp vụ này NHTM đã trở thành một trung gian tài chính hoàn hảo. Nó đã điều chuyển vốn cho nền kinh tế từ nơi có vốn sang nơi cần vốn thông qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn và sâu hơn. Thông qua các nghiệp vụ này ngân hàng làm cho tốc độ lưu thông tiền tệ tăng mạnh, nó góp phần đẩy nhanh qt sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá. Bên cạnh đó nó còn tác động tới lượng tiền mặt trong lưu thông cùng với chi phí lưu thông giảm một cách đáng kể và tận dụng được những nguồn vốn nhàn rỗi một cách tối đa thông qua đó còn thực thi được chính sách tiền tệ quốc gia.
    Có thể nói hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng của NHTM (chủ yếu hoạt động cho vay). Hoạt động này nó có liên quan mật thiết với các ngành, lĩnh vực, đối tượng mà ngân hàng cấp tín dụng. Do vậy rủi ro trong hoạt động cho vay của các NHTM là rủi ro tiềm ẩn từ tất cả các ngành nghề các lĩnh vực mà ngân hàng cho vay. Chính vì vậy việc nghiên cứu rủi ro tín dụng hay rủi ro trong cho vay là vấn đề cấp bách luôn được các NHTM quan tâm:
    - Các hoạt động dịch vụ
    Ngoài các nghiệp vụ cơ bản trên, NHTM còn thực hiện một số hoạt động dịch vụ để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, nhằm thu hút khách hàng tới với ngân hàng và để có thêm khoản thu khác ngoài thu từ lãi cho vay. Các dịch vụ của ngân hàng như:
    Dịch vụ thanh toán hộ
    Dịch vụ mua bán và môi giới chứng khoán
    Dịch vụ tư vấn
    Dịch vụ quản lý tài sản và các chứng từ có giá.
    Có thể nói các nghiệp vụ của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình vận hành của cả bộ máy. Nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ tạo tiền đề cho các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư. Thông qua nghiệp vụ tín dụng, đầu tư mang lại thu nhập cho ngân hàng để tái tạo các nguồn vốn khác. Còn các dịch vụ khác của ngân hàng nhằm thu hút khách hàng đến với ngân hàng tạo điều kiện cho việc mở rộng huy động vốn và mở rộng thị trường kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ quan trọng nhất. Vì nghiệp vụ này nó quyết định đến cả một qt kinh doanh của ngân hàng đó là lợi nhuận.
    1.1.2. Nghiệp vụ cho vay của NHTM
    1.1.2.1. Khái niệm về cho vay
    Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên chuyển giao tiền cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền cam kết hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn.
    Cho vay là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng khi thực hiện tín dụng ngân hàng. Đây là nghiệp vụ chủ yếu khi ngân hàng quyết định cấp tín dụng cho khách hàng và cũng là nghiệp vụ mang về thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra với ngân hàng. Do vậy các NHTM luôn phải quan tâm tới rủi ro trong cho vay nhằm hạn chế tối đa rủi ro tín dụng xảy ra đối với ngân hàng.
    1.1.2.2. Phân loại cho vay
    - Cho vay thầu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn xác định trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này gọi là hạn mức thầu chi.
    Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho những khách hàng có khoản thu chi không phù hợp về thời gian và quy mô thuận lợi trong quá trình thanh toán nhanh và giúp khách hàng kịp thời.



     
Đang tải...