Đồ Án Luận văn tiến sĩ: Hành vi giảm thiểu rủi ro và vận dụng nguồn vốn xã hội của nông dân người Việt ở Đ

Thảo luận trong 'Đầu Tư' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
    TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


    LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

    Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2011

    MỤC LỤC


    Dẫn luận 1
    1. Lý do chọn đề tài– Mục đích nghiên cứu . 1
    2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
    3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn . 6
    4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 7
    5. Phương pháp nghiên cứu và chọn điểm nghiên cứu 8
    6. Những đóng góp mới của luận án 11
    7. Bố cục của luận án 11

    Chương 1
    NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN VỀ HAI CỘNG ĐỒNG
    NÔNG DÂN CHUYỂN DỊCH TỪ TRỒNG LÚA SANG NUÔI TÔM
    Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
    1.1 Các khái niệm liên quan và tổng quan về tình hình nghiên cứu . 13
    1.1.1 Các khái niệm liên quan của luận án 13
    1.1.2 Tổng quan về tình hình nghiên cứu . 21
    1.2 Những hướng tiếp cận của luận án về lý thuyết 30

    1.2.1 Chấp nhận rủi ro, giảm thiểu và phân tán rủi ro 31
    1.2.2 Vốn xã hội như một nguồn lực . 42
    1.3 Tổng quan về hai cộng đồng nông dân chuyển dịch từ lúa sang tôm: miêu
    tả dân tộc học . 50
    1.3.1 So sánh hai cộng đồng qua một số phân tích số liệu định lượng 50
    1.3.2 Ấp Thị Tường, xã Hòa Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau . 57
    1.3.3 Ấp Đình, xã Tân Chánh, huyện Cần Đước, tỉnh Long An 61
    1.3.4 Quá trình chuyển dịch từ lúa sang tôm ởđồng bằng sông Cửu Long
    và hai địa bàn nghiên cứu . 66

    Chương 2
    HÀNH VI PHÂN TÁN VÀ GIẢM THIỂU RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
    KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN NUÔI TÔM VÙNG
    ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
    2.1 Các yếu tốảnh hưởng đến nghề nuôi tôm 78
    2.1.1 Chính sách . 78
    2.1.2 Đất đai- môi trường . 83
    2.1.3 Kiến thức – kỹ thuật 87
    2.1.4 Lao động và sự hợp tác trong sản xuất 92
    2.1.5 Vốn sản xuất 97
    2.1.6 Sản xuất, thị trường tiêu thụ, chi phí và thu nhập 102
    2.2 Tính bất ổn của nghề nuôi tôm: một số phân tích . 116
    2.3 Hành vi phân tán và giảm thiểu rủi ro của nông dân nuôi tôm 124
    2.3.1 Phân tán và giảm thiểu rủi ro khi chuyển dịch từ lúa sang tôm . 125
    2.3.2 Phân tán và giảm thiểu rủi ro trong quá trình sản xuất: áp dụng khoa học
    kỹ thuật một cách chọn lọc 135

    Chương 3
    QUAN HỆ XÃ HỘI VÀ VỐN XÃ HỘI Ở CỘNG ĐỒNG NÔNG DÂN
    NUÔI TÔM VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    3.1 Quan hệ xã hội và vốn xã hội ở cộng đồng nông dân nuôi tôm 150
    3.1.1 Các tổ chức xã hội quan phương . 151
    3.1.2 Các tổ chức và mạng lưới xã hội phi quan phương 166
    3.1.2.1 Gia đình - dòng họ và quan hệ hôn nhân . 166
    3.1.2.2 Các tổ chức tôn giáo - tín ngưỡng . 183
    3.1.2.3 Hội “dân/ dâng quan” 191
    3.1.2.4 Các nhóm hụi . 194
    3.2 Vai trò của vốn xã hội trong hoạt động kinh tếở cộng đồng nông dân nuôi
    tôm vùng ĐBSCL . 198
    3.2.1 Sự tương trợ về vốn 199
    3.2.2 Sự tương trợ về kỹ thuật và thông tin thị trường . 206
    3.2.3 Sự tương trợ về lao động . 208

    KẾT LUẬN 216
    Tài liệu tham khảo 224
    Chú thích 239
    Phụ lục 1 (Một số so sánh định lượng về hai cộng đồng) . 248
    Phụ lục 2 (Bảng hỏi) . 257
    Phụ lục 3 (Biên bản phỏng vấn) . 272
    Phụ lục 4 (Một số hình ảnh của hai cộng đồng nghiên cứu) . 305

    DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
    1. Bảng 1.1: Dân số, diện tích đất đai và tỷ lệ hộ nuôi tôm ở hai địa bàn nghiên cứu . 51
    2. Bảng 1.2: Số hộđã từng/ có nuôi tôm tại hai cộng đồng khảo sát 51
    3. Bảng 1.3: Các hình thức nuôi tôm tại hai cộng đồng khảo sát . 51
    4. Bảng 1.4: Số thế hệ trong hộ ở hai cộng đồng khảo sát 52
    5. Bảng 1.5: Số nhân khẩu hộ gia đình ở hai cộng đồng khảo sát 52
    6. Bảng 1.6: Việc làm chính trong 12 tháng qua ở hai cộng đồng khảo sát . 53
    7. Bảng 1.7: Diện tích vuông tôm hộ gia đình sở hữu và đang sử dụng ở hai cộng
    đồng khảo sát . 53
    8. Bảng 1.8: Diện tích vuông tôm thấp nhất và cao nhất các hộ gia đình sở hữu và
    đang sử dụng . 54
    10. Bảng 2.1: So sánh hiệu suất lúa và tôm/ 1 năm tại thời điểm chuyển dịch ở hai
    địa bàn nghiên cứu 111
    12. Bảng 2.2: Chi phí và lợi nhuận bình quân từ nuôi tôm nếu có thu hoạch của các
    hình thức nuôi tôm trên 1 ha/ 1 năm tại địa bàn khảo sát vào năm 2009 . 112

    13. Bảng 2.3: Đánh giá vềđời sống kinh tế của các hộ nuôi tôm kể từ khi chuyển
    dịch sang nuôi tôm ở hai cộng đồng . 114
    14. Bảng 3.1: Số lượng thành viên các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
    chức xã hội và tổ chức xã hội – nghề nghiệp tại hai địa bàn nghiên cứu . 153

    DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ SƠ ĐỒ
    1. Hình 1.1: Địa điểm nghiên cứu . 56
    2. Hình 1.2: Sản lượng tôm nuôi của Việt Nam và vùng ĐBSCL 67
    3. Hình 1.3: Diện tích và số hộ nuôi tôm ở xã Tân Chánh qua các năm 74
    4. Hình 2.1: Sơđồ phân cấp quản lý công tác khuyến nông các cấp . 82
    5. Hình 2.2: Mạng lưới thị trường tiêu thụ tôm ởđịa bàn khảo sát 109
    6. Hình 3.1: Sơđồ hệ thống thân tộc, quê quán của người hôn phối và đặc điểm hôn
    nhân của dòng họ Nguyễn ấp Đình, Tân Chánh . 179
    7. Hình 3.2: Sơđồ hệ thống thân tộc, quê quán của người hôn phối và đặc điểm hôn
    nhân của dòng họ Nguyễn ấp Thị Tường, Cà Mau . 181



    DẪN LUẬN
    1. Lý do chọn đề tài – Mục đích nghiên cứu
    Hiện nay, tuy Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa và kết quả là tỷ trọng của ngành nông nghiệp đã giảm dần trong cơ cấu tổng sản phẩm. Năm 2008, cơ cấu tổng sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 22,2%, trong khi đó ngành công nghiệp – xây dựng chiếm 39,8% và dịch vụ chiếm 38% [7, tr.16], [63, tr.38]. Tuy tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp đã giảm trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc gia nhưng lực lượng lao động tham gia trong lĩnh vực này vẫn chiếm một tỷ lệ quan trọng. Đến năm 2009, cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 51,92% [63, tr. 25]. Ngoài ra, trong vấn đềđảm bảo an ninh lương thực, với tiềm năng to lớn của nông nghiệp của Việt Nam như hiện nay thì nông nghiệp và nông dân vẫn là những vấn đề quan trọng.
    Với đặc điểm tự nhiên là một vùng đồng bằng trù phú, thường xuyên được dòng sông Mê Kông bồi đắp phù sa, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một vùng có tiềm năng phát triển nông nghiệp quan trọng bậc nhất của Việt Nam. Trong bối cảnh ngày càng tham gia mạnh mẽ vào thị trường thế giới, vùng đất này đã có những thay đổi mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp. Với những chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, sự tự do hóa thương mại, và những tiến bộ về khoa học kỹ thuật hiện nay, các hoạt động kinh tế đa dạng của vùng đã và đang hướng về sản xuất thị trường. Sản xuất nông nghiệp thương mại giá trị cao ngày càng gia tăng về quy mô và cường độ. Kết quả là, tuy chỉ chiếm 12% diện tích tự nhiên của cả nước, khoảng 30% diện tích đất nông nghiệp và 21% dân số nhưng hàng năm đồng bằng này cung cấp 50% sản lượng lúa gạo, 90% lượng gạo xuất khẩu, 80% sản lượng thủy sản, 60% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản, và 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đóng góp khoảng 18% GDP cả nước [4, tr. 17], [168]. Đi cùng với những con số tăng trưởng kinh tếở tầm vĩ mô là thực tế ĐBSCL không thể chỉđược hình dung như một vùng sản xuất nông nghiệp với những nông dân quanh năm chỉ biết có công việc đồng ruộng cố hữu mà nơi đây đã có những biến đổi sâu sắc trên nhiều phương diện. Trong các phương thức mưu sinh của các cư dân tại đây, những thay đổi cũng đã biểu hiện rất sâu sắc.
    Trong những thập kỷ qua, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp đã trở thành một hiện tượng nổi bật của vùng. Thế nhưng, đi cùng với sự chuyển đổi phương thức mưu sinh mạnh mẽ hướng về thị trường này thì tình trạng sản xuất nông nghiệp trong thời gian qua ở ĐBSCL lại nổi bật với những hiện tượng điệp khúc “trồng – chặt,” “trúng mùa – rớt giá,” người nông dân thường xuyên thay đổi phương thức mưu sinh của mình theo nhịp điệu biến động của nhu cầu thị trường.
    Thật vậy, nông dân ĐBSCL thường được đánh giá là nhanh nhạy trong việc đáp ứng với thị trường và đây cũng được cho là nguyên do của sự chuyển dịch tự phát, và điệp khúc chuyển đổi mưu sinh chưa có hồi kết [62, tr.8].
    Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã và đang diễn ra mạnh mẽ với nhiều mô hình chuyển dịch từđối tượng trồng trọt này sang đối tượng trồng trọt khác, từ trồng trọt sang chăn nuôi, hay từ đối tượng chăn nuôi này sang đối tượng chăn nuôi khác. Trong các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tếởĐBSCL, có thể nói mô hình chuyển dịch từ trồng lúa năng suất thấp sang nuôi tôm thương mại trong những năm qua là một trong những mô hình diễn ra mạnh mẽ và quy mô nhất, làm thay đổi nhiều khía cạnh của vùng ĐBSCL trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và sinh thái.
    Trong lĩnh vực nuôi tôm có ba mô hình chuyển dịch chủ yếu: lúa-tôm, rừng- tôm và muối-tôm. Giống tôm được nuôi chủ yếu hiện nay ở vùng ĐBSCL là tôm sú (black tiger shrimp, Penaeus Monodon) và tôm thẻ chân trắng (white-leg shrimp, Penaeus Vannamei). Tuy chưa có số liệu thống kê chính thức về diện tích chuyển dịch của từng loại mô hình cho cả vùng ĐBSCL hiện nay nhưng có bằng chứng cho thấy mô hình chuyển từ lúa – tôm là hình thức phổ biến nhất trong các loại hình chuyển dịch sang nuôi tôm. Vào năm 2001, (giai đoạn chuyển dịch sang nuôi tôm ồ ạt ở ĐBSCL), trong tổng số 127.899 ha nuôi tôm của cả vùng thì diện tích mô hình chuyển dịch lúa-tôm đã là 118.000 ha. Mô hình này đặc biệt phát triển ở những vùng chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ canh tác lúa một vụ không hiệu quả sang độc
    canh tôm hay tôm – lúa luân canh [49, tr.7]. Hay theo thống kê của Sở Thủy sản Cà Mau, vào năm 2004, trong tổng số 247.510 ha diện tích nuôi tôm của toàn tỉnh thì chỉ tính riêng diện tích chuyển đổi từ lúa sang tôm theo sau chính sách khuyến khích của chính quyền địa phương đã là 130.000 ha [62, tr.8].
    Ở các cộng đồng nông dân thực hiện việc chuyển dịch từ lúa sang tôm đã diễn ra một sự chuyển biến mạnh mẽ về phương thức sinh kế của nông dân trên các khía cạnh sinh thái và hiệu quả kinh tế. Người dân tại những vùng đất này, do điều kiện sinh thái đặc thù của vùng giao thoa giữa đất liền và biển với sáu tháng nước ngọt và sáu tháng nước mặn, trước khi chuyển sang nuôi tôm, một năm người nông dân đa phần chỉ có thể làm được một vụ lúa và do vậy năng suất không cao . So với các vùng chuyên canh lúa vốn hàng năm có thể sản xuất từ hai đến ba vụ thì những vùng nước lợ này, trong thời đại hoàng kim của xuất khẩu gạo, đã không thể tham gia tích cực vào quá trình sản xuất hàng hóa cho thị trường. Thế nhưng trong điều kiện mới về nhu cầu thị trường, chính sách nhà nước, sự phát triển của khoa học kỹ
    thuật, và lợi thế so sánh tự nhiên thích hợp cho việc nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là con tôm, một mặt hàng có giá trị cao, những vùng nước lợ này đã bắt đầu gia nhập mạnh mẽ vào sản xuất thị trường. Đối với trồng lúa, sản phẩm làm ra có thể một phần phục vụ cho nhu cầu lương thực của gia đình, một phần tham gia thị trường để trang trải các chi phí khác của hộ gia đình. Thế nhưng đối với hình thức nuôi tôm,
    sản phẩm làm ra chủ yếu để tham gia thị trường. Do tính siêu lợi nhuận của tôm so với lúa nên hình thức chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ lúa sang tôm đã được xem như một lời giải cho bài toán giảm nghèo và tăng trưởng kinh tếở những vùng đất này.
    Tuy nhiên, đồng nghĩa với việc chuyển từ trồng lúa với chi phí đầu tư và hiệu quả kinh tế thấp sang nuôi tôm với vốn đầu tư và hiệu quả kinh tế cao và phụ thuộc mạnh mẽ vào thị trường, nông dân cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro trong phương thức sinh kế mới này. Việc chấp nhận những rủi ro này có thể vừa là một con đường dẫn đến sự tăng trưởng về kinh tế cho người nông dân nhưng cũng vừa có thể là một thảm họa cho đời sống của họ. Ngoài ra, các cộng đồng cư dân sản xuất nông nghiệp này từ lâu cũng đã hình thành một hình thức tổ chức xã hội nhất định với các mối quan hệ xã hội đặc trưng. Đặc điểm tổ chức xã hội của cư dân vùng ĐBSCL thường được các nhà nghiên cứu nhận diện là “mở” hay “ít chất kết dính.”
    Xuất phát từ mối quan tâm về bản chất hiện tượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra ở vùng đất năng động này và đặc điểm các mối quan hệ xã hội của cộng đồng cư dân tại đây cùng với vai trò của chúng trong cuộc sống người dân, chúng tôi chọn vấn đề “Hành vi giảm thiểu rủi ro và vận dụng nguồn vốn xã hội của nông dân người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình chuyển dịch từ trồng lúa sang nuôi tôm” làm đề tài nghiên cứu.
    Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là tìm hiểu bản chất hành vi kinh tế của nông dân cùng với các quan hệ xã hội của cộng đồng nông dân trong bối cảnh tham gia mạnh mẽ vào sản xuất thị trường, áp dụng các yếu tố khoa học kỹ thuật mới và sự hội nhập với nền kinh tế thế giới. Những kết quả nghiên cứu là những kiến thức và sự hiểu biết ở mức độ vi mô để làm cơ sở nhận diện đánh giá các vấn đề ở tầm vĩ mô có liên quan đặc biệt là chính sách nông nghiệp.
    2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án tập trung vào hành vi kinh tế và quan hệ xã hội của các cộng đồng nông dân nuôi tôm ở vùng ĐBSCL.
    Trong việc tìm hiểu hành vi kinh tế của nông dân, chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu tư duy giảm thiểu và phân tán rủi ro khi thực hiện hành vi kinh tế; và trong việc khảo sát các mối quan hệ xã hội chúng tôi sẽ phác họa, hệ thống các mối quan hệ xã hội của cộng đồng nông dân và vai trò của chúng trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt trong hoạt động kinh tế của nông dân.
    Do nuôi tôm có lợi nhuận cao và cần nhiều vốn nên ở những địa phương nuôi tôm, việc cho thuê hay bán đất cho người ngoài cộng đồng đến nuôi tôm là một hiện tượng phổ biến, đặc biệt đối với những vùng nuôi tôm công nghiệp tập trung như ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau Tuy nhiên, do tập trung khảo sát về mối quan hệ xã hội của cộng đồng nên đối tượng khảo sát của luận án là các nông dân dân tại chỗ làm nghề nuôi tôm. Các nông dân có thể chuyển hoàn toàn từ trồng lúa sang chuyên canh tôm hoặc thực hiện luân canh tôm lúa. Chúng tôi cũng nhận thức là vùng ĐBSCL là một vùng đa dân tộc nơi có sự cộng cư của các dân tộc chủ yếu như người Hoa, người Khmer và người Việt. Sự đa dạng tộc người này cũng thể hiện trong nghề nuôi tôm nhưng do khả năng có giới hạn nên chúng tôi chỉ tập trung khảo sát cộng đồng người Việt vốn là tộc người chiếm sốđông tại vùng đồng bằng
    này.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...