Thạc Sĩ Luận văn Thạc sĩ KH Giáo dục: Vận dụng quan điểm sư phạm tương tác vào dạy học nội dung phép dời hìn

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận văn dài 151 trang CÓ FILE WORD

    MỞ ĐẦU

    Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc phát triển con người, coi con người là nguồn lực hàng đầu của đất nước. Con người được giáo dục và tự giáo dục luôn được coi là nhân tố quan trọng nhất “vừa là động lực, vừa là mục tiêu” cho sự phát triển bền vững của xã hội. Điều 35 của Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chỉ rõ “Giáo dục – Đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học – công nghệ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của các thế hệ hiện nay và mai sau. Giáo dục Việt Nam đang tập trung đổi mới, hướng tới một nền giáo dục tiến bộ, hiện đại ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới. Uỷ ban giáo dục của UNESCO đã đề ra bốn trụ cột của giáo dục trong thế kỷ XXI là: Học để biết (Learning to know), học để làm (Learning to do), học để cùng chung sống (Learning to live together), học để tự khẳng định mình (Learning to be). Tương ứng với bốn trụ cột này, chủ trương quan tâm đầu tư phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước ta cũng được thể hiện rõ nét trên các mục tiêu, cụ thể:
    Về mục tiêu giáo dục, Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VII (năm 1993) đã nêu rõ: “Mục tiêu Giáo dục – Đào tạo phải hướng vào đào tạo những con người lao động, tự chủ, sáng tạo, có năng lực giải quyết những vấn đề thường gặp, qua đó góp phần tích cực thực hiện mục tiêu lớn của đất nước là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
    Về nội dung giáo dục, chương 2, mục 2, điều 28.1 của Luật Giáo dục đã khẳng định: “Nội dung giáo dục phổ thông phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi cấp học” [37, tr.17].
    Về phương pháp giáo dục đào tạo, Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII (năm 1997) đã chỉ rõ: “Phải
    đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Trong Luật Giáo dục Việt Nam, chương 2, mục 2, điều 28.2 đã viết: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [37, tr.17].
    Dạy học là con đường quan trọng để nâng cao trình độ hiểu biết và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Mặc dù người thầy giữ vai trò hết sức quan trọng trong định hướng dạy học và chuyển giao tri thức, kỹ năng cho người học nhưng phải làm sao trong mỗi tiết học học sinh (HS) được suy nghĩ nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn. Hơn nữa, đổi mới phương pháp giáo dục phải nhấn mạnh tương tác, hỗ trợ, cùng nhau hợp tác đi vào con đường tiếp thu, lĩnh hội các tri thức, kỹ năng, thái độ thành vốn sống, ăn nhập vào vốn kinh nghiệm của bản thân, tạo nên một tiềm năng và tiếp đó thành nhân cách, thành năng lực hoạt động của từng người – thành người, làm người và ở đời. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học để đáp ứng mục tiêu giáo dục hiện nay là nhiệm vụ cần thiết. Trong khi đó, ở nước ta việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo của người học vẫn đang được quan tâm và đầu tư, nhưng nói chung hiệu quả còn chưa rõ nét. Sự lúng túng này bộc lộ sự hẫng hụt ở cơ sở lý luận. Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo của người học đòi hỏi phải có sự xác lập cơ sở lý luận theo hướng khoa học sư phạm hiện đại. Quan điểm sư phạm tương tác (QĐSPTT) là một hướng đáp ứng được những yêu cầu này. Đó là một hướng dạy học đề cao vai trò tương tác giữa người học với người học, người học và người dạy, người học và môi trường. Bộ ba người học, người dạy và môi trường tập hợp các tác nhân chính tham gia vào quá trình học tập. Các nét chính của phương pháp này đã được nhóm tác giả Jean-Marc Denommé và Madelenie Roy dùng làm chủ đề cho năm khoá học tăng cường về đào tạo sư phạm thực hiện ở Châu Phi, đặc biệt là ở Ruanda. dụng QĐSPTT vào dạy học ở nước ta vẫn còn ít được quan tâm và khá mới mẻ với đa số giáo viên (GV), đặc biệt, cơ sở lý luận của nó vẫn còn tiềm ẩn và ít tài liệu đề cập đến vấn đề này.Việc nghiên cứu hình học theo quan điểm biến hình đã được nhà toán học người Đức là Felix Klein (1849-1925) hệ thống lại trong “Chương trình Erlangen” xuất bản năm 1872. Phép biến hình có nhiều ứng dụng trong giải toán hình học. Khái niệm biến hình là một khái niệm mới và khá trừu tượng đối với học sinh lớp 11. Qua thực tế giảng dạy của GV và học tập của HS về vấn đề này vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đa số GV chưa xác định được phương pháp dạy hiệu quả chương này. Việc vận dụng QĐSPTT tác hợp lý vào dạy học nội dung này sẽ khắc phục được những khó khăn trên và đáp ứng được mục tiêu dạy học.
    Vì vậy, trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu, chúng tôi chọn đề tài là: Vận dụng quan điểm sư phạm tương tác vào dạy học nội dung Phép dời hình và phép đồng dạng trong mặt phẳng, Hình học 11 nâng cao trường trung học phổ thônglàm đề tài nghiên cứu.
    2. Mục đích nghiên cứu

    Trên cơ sở nghiên cứu lí luận về QĐSPTT, từ đó đề xuất hướng tổ chức dạy học nội dung Phép dời hình và phép đồng dạng trong chương trình môn Toán lớp 11 ở trường THPT theo QĐSPTT nhằm đáp ứng toàn diện mục tiêu Giáo dục và Đào tạo.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...