Tiểu Luận LS022 - Quá trình chuyển biết từ vượn thành người trên thế giới và Việt Nam

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    DẪN LUẬN​


    Đó có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc loài người. Ngay từ thời xa xưa (thời nguyen thuỷ), khi có những nhận thức nhất định con người đó đặt ra những câu hỏi “con người do đâu mà có?”. và cũng từ thời xa xưa đó con người đó đi tìm câu trả lời cho câu hỏi đó. sự quan tâm của loài người tới nguồn gốc của mình được thể hiện qua rất nhiều truyền thuyết, truyện cổ tích về sự sáng tạo thế giới mà bất cứ một dân tộc nào cũng có. Người Trung Quốc cổ cho rằng Bà Nữ Oa dùng bùn vàng nặn ra con người và thổi linh hồn vào đó. người Việt giải thích nguồn gốc của mình là “con Rồng, cháu Tiên”. Còn kinh thánh của đạo Kitô giáo thì lại cho rằng đức Chúa Trời đó dựng đất sột nặn thành người đàn ông và lấy xương sườn người đàn ông để nặn thành người đàn bà

    Có thể thấy điểm chung ở của các truyền thuyết, huyền thoại của các dân tộc, tôn giáo khi giải thích về nguồn gốc của loài người thì đều quy công sáng tạo cho các đấng thần linh, các lực lượng siêu nhiên.

    Các học giả duy tâm phản động đã và đang nêu ra nhiều học thuyết phản khoa học về nguồn gốc loài nguời. Tuy mang nhiều mầu sắc khác nhau nhưng thực chất của các tôn giáo đó không khác xa tôn giáo là bao nhiêu.

    Các nhà duy vật tiến bộ từ lâu đó tiến hành đấu tranh không khoan nhượng chống lại các thế giới quan tôn giáo duy tâm phản động về nguồn gốc con người. Kết quả nghiên cứu về con người ngày càng chứng tỏ, sự ra đời của con người là kết quả của cả một quá trình tiến hóa liên tục, lâu dài và rất phức tạp của thế giới sinh vật.

    Từ trước công nguyên các nhà triết học duy vật đó nhận thấy giữa con người và cỏc động vật, nhất là động vật bậc cao có rất nghiều điểm giống nhau như: cấu tạo hệ cơ bắp, hệ thần kinh, tuần hoàn và cả sinh sản. Vì vậy họp đặt vấn đề đi tìm kiếm và chứng minh nguồn gốc loài người từ động vật, tuy nhiên họ vẫn chưa biết con người xuất hiện trên trời đất như thế nào.

    Đến thế kỷ XVIII, dựa trờn nhiều tài liệu về động vật học mới được tích luỹ, nhà sinh vật học Thuỵ Điển Lin noo đó tiến hành phân loại động vật. Năm 1758 trong tác phẩm “Hệ thống tự nhiên” Lin noo đó xếp vào bộ linh trưởng chung với kỉ vượn, vượn cáo. Chính Lin noo đó đặt tên Homo cho giống người.

    Tuy chưa thoát khỏi quan niệm bất biến về giống loài, nhưng Lin noo thật sự là người đầu tiên tiến hành phân loại và xếp con người và bảng phân loại sinh giới.

    Năm 1809 La Mỏc đó công bố cuốn “Triết học động vật”, trong đó vạch rừ các động vật cao đẳng phát sinh từ động vật hạ đẳng và loài người có nguồn gốc từ loài vượn người. Nhưng La Mac chưa đưa ra được cac bằng chứng khoa học cụ thể.

    Nhà sinh vật học Charles Darwin là người thục sự tạo bước ngoặt vĩ đại trong tư duy nghiên cứu về nguồn gốc loài người. Đac-uyn đó chứng minh rằng loài người có nguồn gốc từ loài vượn người hoỏ thạch đó bị tiêu diệt chứ không phải do Thượng đế tạo ra. Và theo Đac uyn thì người khác khỉ,vượn ở bốn điểm: Đi bằng hai chân, có khả năng kỹ thuật, nêo lên và phức tạp, răng nanh tiêu giảm đáng kể.

    Trong bộ linh trưởng, các giống vượn người có nhiều điểm giống người hơn cả. hiện còn bốn giống vượn người hiện đại như: Hắc tinh tinh (Chimpanzộ), Khỉ đột (Gorilla), Vượn tay dài (Gipbon) và Đười ươi (Orangoutan).

    - Hắc tinh tinh (Chimpanzộ): Chủ yếu sống ở lưu vực sụng Công Gô và Nigiơ, Chimpazộ có cấu tạo cơ thể giống người hơn cả. Hắc tinh tinh cao khoảng 150cm, nặng 50kg, dung tích hộp sọ khoảng 350cm3 đến 500cm3.

    - Khỉ đột (Gorilla): Sống ở vựng xớch đạo Châu Phi,cao 200cm, nặng 200 kg. Thể tích hộp sọ khoảng 400cm3 đến 450cm3. Được coi là một trong những loài vượn người thông minh. Trong hoạt động kiếm sống cũng như trong hoạt động sinh hoạt nú thường có những biểu lộ những trạng thái vui, buồn, giận giữ

    - Vượn tay dài (Gipbon): sống ở Đông Dương (ở Việt Nam cũng có loài vuợn này). Nó có chi trước rất dài, cao khoảng 100cm, nặng gần 100kg, dung tích úc từ 100 cm3 đến 150cm3.

    - Đười ươi (Orangutan): chỉ có mặt ở đảo Ka-li-mang-tan và đảo Su-ma-tơ-ra. Nó rất lớn, cao tới 150cm, nặng từ 100kg đến 200kg, dung tích hộp sọ khoảng 300cm3 đến 500cm3

    Cả bốn giống vượn người nay đều có những đặc điểm giống nhau, khiến chúng khác với khỉ vượn hạ đẳng và gần gũi với người hơn. Tuy nhiên chúng không phải là tổ tiên trực tiếp của loài người mà chỉ là một nhánh trên con đường tiến hóa đó đi chệch ra khỏi quỹ đạo với loài người. Những loài vượn người này hiện nay đó hoàn toàn thích nghi với điều kiện tự nhiên, môi trường mà nó sinh sống và nó không có khả năng tiến hóa thành người được nữa.

    Như vậy cú thể khẳng định loài người chúng ta không phải phát sinh từ giống vượn người hiện đại. Theo kết quả nghiên cứu cho tới nay, thì loài người đó phát sinh từ một loài vươn cổ hóa thạch đó bị tiêu diệt. Tuy nhiên do vượn người hiện đại ngày nay có nhiều đặc điểm gần gũi với người nên muốn nghiên cứu, tìm hiểu về nguồn gốc của loài người thì phải tìm hiểu và nghiên cứu những hóa thạch của vượn người và người vượn. Do vậy chúng ta có thể phác dựng lại quá trình phát sinh, phát triển của loài người.


    Đề tài: Quá trình chuyển biết từ vượn thành người trên thế giới và Việt Nam
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...