Đồ Án LOGISTICS : Tích hợp hệ thống

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI MỞ ĐẦU
    Trong phạm vi vai trò của mình, những nhà quản trị khi được yêu cầu lắp đặt lại hệ thống logistics phải đối diện với sự phân công mới và đầy thử thách. Để đạt được tỉ lệ thay đổi nhanh chóng trong hầu hết mọi mặt của việc tổ chức logistics, nhà quản trị mong đợi những bước nhảy to lớn khi họ cố gắng sử dụng những kinh nghiệm trước đây để hướng đến sự sáng tạo và bổ sung năng lực quản trị logistics. Chính vì vậy, thành công hay thất bại phụ thuộc vào nhóm hoạch định có thể xác định số lượng nguồn lực trong công việc hợp lý hay không và những kế hoạch hành động tốt như thế nào. Có được sự am hiểu toàn diện về lý thuyết tích hợp hệ thống logistics sẽ tạo nên một bước tiến quan trọng nhằm phát triển chiến lược hợp nhất.
    Trong chương trước, bản chất của chiến lược logistics đã được gắn với hoạt động tối thiểu hóa chi phí đồng thời duy trì sự linh hoạt. Sự linh hoạt là chìa khóa cung cấp sự thỏa mãn cơ bản đối với khách hàng ở mức cao, cùng lúc đó duy trì khả năng tổ chức hợp lý hiệu quả có thể giành được sự mong đợi chính ở khách hàng. Để khai thác hết sự linh hoạt, công ty tích hợp quá trình logistics ở mức độ cao. Sự hợp nhất đòi hỏi ở hai mức độ hoạt động:
    - Đầu tiên, phạm vi hoạt động của logistics phải được hợp nhất qua hệ thống kho hàng mang tính hỗ trợ cho việc đáp ứng khách hàng, sản xuất cũng như những đòi hỏi về thu mua. Sự hợp nhất trong hệ thống rất cần thiết nếu công ty sử dụng những năng lực logistics nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh.
    - Thứ hai, sự hợp nhất phải mở rộng xa hơn tầm công ty đơn lẻ, bằng cách hỗ trợ mối quan hệ thông qua chuỗi cung ứng.
    Chương này giới thiệu một khung sườn nhằm giúp nhà quản trị đạt được sự hợp nhất như trên.


    1. HỆ THỐNG KHO HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP
    Trước khi xuất hiện phương thức vận tải thủy bộ dựa vào chi phí thấp, phần lớn thương mại thế giới phụ vận chuyển nguyên vật liệu và sản phẩm bằng đường biển. Trong suốt giai đoạn này, hoạt động thương mại tập trung quanh những thành phố cảng. Vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ rất đắt và chậm. Ví dụ, thời gian từ lúc đặt hàng quần áo xuyên lục địa Hoa Kỳ có thể mất tới chín tháng. Mặc dù nhu cầu về vận chuyển nhanh và hiệu quả luôn luôn được đặt ra, nhưng mãi tới khi đầu máy xe lửa hơi nước được phát minh vào năm 1829 thì cuộc cách mạng về kỹ thuật vận tải mới bắt đầu ở Mỹ. Ngày nay, hệ thống giao thông vận tải ở quốc gia này là một mạng lưới phát triển mạnh với đường xe lửa, đường biển, đường bộ và đường ống. Mỗi phương thức vận tải cung cấp một loại hình dịch vụ khác nhau trong một hệ thống logistics. Hình thức vận tải mang tính kinh tế cao này đã tạo ra cơ hội xây dựng một hệ thống kho bãi có năng lực cạnh tranh đề phục vụ khách hàng.
    Tầm quan trọng của việc phân tích địa điểm kho hàng được cân nhắc tới từ giữa thế kỉ 19, khi Joachim von Thunen, một nhà kinh tế học người Đức, viết cuốn sách The Isilate State. Theo ông thì yếu tố quyết định để phát triển có lợi nhuận là giá đất đai và chi phí vận chuyển từ trang trại tới thị trường. Giá đất được xem xét bằng cách liên hệ trực tiếp với chi phí vận chuyển và khả năng của sản phẩm có thể kiểm soát một mức giá tương xứng để có thể bù đắp mọi chi phí và lợi nhuận. Nguyên lý cơ bản của Von Thunen là: giá của một sản phẩm cụ thể nhờ vào việc phát triển địa điểm sẽ giảm đi so với giá thị trường nếu quan tâm đến địa điểm kho hàng
    Sau von Thunen, Alfred Weber đã khái quát nên lý thuyết về địa điểm từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp. Hệ thống lý thuyết của Weber bao gồm rất nhiều địa điểm trải rộng trên một vùng địa lý và được liên kết với nhau bằng các chuỗi chi phí vận chuyển. Weber đã phát triển một sơ đồ để phân loại các nguyên liệu chính xem chúng có phổ biến ở khắp nơi hay chỉ có ở một vài địa phương (bao gồm những khoáng thô sản chỉ có ở một số vùng nhất định). Dựa trên phân tích của mình, Weber đã xây dựng nên một danh mục nguyên vật liệu (material index). Danh mục này là tỉ lệ giữa nguyên liệu thô chỉ có tại một vài địa điểm trên tổng khối lượng thành phẩm. Nhiều ngành công nghiệp áp dụng một khối lượng nguồn nguyên liệu tại địa phương dựa trên danh mục này. Tận dụng hai cách đo lường này, Weber đã khái quát rằng các ngành công nghiệp sẽ có vị trí thuận tiện nếu được đặt tại nơi tiêu thụ khi quá trình sản xuất đang tăng và được đặt tại nơi gần với nguồn nguyên liệu thô khi quá trình sản xuất đang giảm xuống. Cuối cùng, nếu quá trình sản xuất không tăng cũng không giảm thì công ty nên lựa chọn địa điểm trung gian.
    Chỉ một vài nhà lý luận đồng ý với quan điểm của von Thunen và Weber. Lý thuyết về địa điểm đáng chú ý nhất được phát triển bởi August Losch, Edgar Hoover, Walter Isard và Michael Webber. Những tác phẩm của họ đã nêu bật được tầm quan trọng của chuyên môn hóa về địa điểm của ngành công nghiệp, bao gồm cả xác định tầm quan trọng của sự vận tải.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...