Tài liệu Lịch Sử Võ Học Việt Nam

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Lịch Sử Võ Học Việt Nam

    Giáo sư Vũ Ðức


    Kể từ ngày Hồng Bàng lập quốc cho đến nay, nước Việt Nam nhà khảo cổ cũng đã tìm hiểu được sự sinh hoạt của nhân loại
    đã có gần năm ngàn năm lịch sử (kể từ năm Nhâm Tuất) 2879 vào thời xa xưa qua những di tích còn để lại.
    trước Thiên Chúa), trải qua mười tám đời vua Hùng Vương
    cho đến các triều đại Ngô, Ðinh, Lê, Lý Trần, Nguyễn, . Riêng tại Việt Nam, những di tích thuộc vào thời cựu thạch
    nước Việt Nam đã chịu biết bao nỗi thăng trầm lịch sử của (đá đẽo) như các món binh khí: búa, rìu, dao, nạo, dùi, cào, .
    các thời thịnh trị và loạn lac. Ðể giữ vững đất nước, tự vệ làm bằng loại đá đẽo đã được các nhà khảo cổ Việt Nam tìm
    chống ngoại xâm từ phương bắc và mở mang bờ cõi lấn thấy tại các vùng đất Thanh hóa, Lạng Sơn, Vĩnh Phú, thuộc
    chiếm về phương nam, tổ tiên Việt Nam cũng đã khéo léo miền Bắc Việt Nam. Ở hang Thượng Phú thuộc miền Trung
    phối hợp trong việc xử VĂN dùng VÕ, để tạo nên được Việt Nam, nhà khảo cổ M. Colani đã tìm thấy được những
    một dãy giang san cẩm tú như ngày hôm nay. Do đó, người hình ảnh khắc vẽ trên vách đá, giống như một người thợ săn
    xưa đã có câu: tay đang cầm cây lao để nhắm hướng lên một con chim đang
    bay lượn trên không trung, trong khi ở bên dưới là hình ảnh
    Văn quan cầm bút an thiên hạ, của những chiếc đầu thú vật có sừng. Ngoài ra, xuyên qua
    Võ tướng đềđao định thái bình. những bức tranh họa trên da thú rừng hoặc được khắc trên
    những phiến đá được lưu trữ tại các viện bảo tàng Việt Nam,
    Qua hai câu trên, chứng tỏ rằng người xưa chẳng những học chúng ta còn nhận thấy được hình ảnh của những chiếc thạch
    văn mà còn chú trọng đến việc rèn luyện võ thuật để chống côn trong thời đại đá đẽo. Với những di tích vừa kể trên cũng
    giặc, dẹp loạn, ngõ hầu mang lại thanh bình cho xứ sở. Nhìn đã nói lên được một phần nào sự liên quan đến khoa chiến
    chung vào toàn bộ lịch sử tranh đấu của dân tộc Việt Nam, đấu của tổ tiên Việt Nam trong thời đó.
    nền võ học Việt Nam đã đóng một vai trò rất quan trọng,
    trong vận mạng thịnh suy của đất nước. Bởi vì, những vị anh Ðến thời đại trung thạch (đá mài) con người vẫn nhờ vào võ
    hùng dân tộc, phần lớn đều xuất thân từ giới võ học, đã tiên công của mình để làm phương tiện mưu sinh căn bản cho cá
    phong mang tài thao lược võ dũng và võ trí để góp công vào nhân và gia đình, rồi dần dần với đà tiến bộ biết cách trồng
    cuộc lập quốc và kiến quốc. Do đó, để tìm hiểu lịch sử võ học trọt, nuôi thú vật, con người đã tạo được sự bảo đảm về mặt
    Việt Nam, chúng tôi xin được căn cứ trên bối cảnh lịch sử và thực phẩm, rồi sự sinh sản gia tăng, con người mới bắt đầu
    thứ tự thời gian, trong bộ Việt Nam sử lược, của học giả sống định cư, thành tập đoàn dưới hình thức bộ lạc. Theo
    Trần Trọng Kim làm căn bản, để phân chia lịch sử võ học quan điểm của các nhà khảo cổ học đã ghi nhận, đây là thời
    Việt Nam ra làm bốn thời kỳ chính yếu như sau: Thượng cổ kỳ tân thạch, con người bắt đầu biết sống tập đoàn và có chút
    thời đại, Bắc thuộc thời đại, Tự chủ thời đại, và Cận kim thời ít sống văn minh, tiến bộ lần tới thời đại kim khí.
    đại.
    Theo các sử gia và các nhà khảo cổ học Việt Nam, vào đời
    I. THƯỢNG CỔ THỜI ÐẠI (2879 - 110 TRƯỚC THIÊN vua Hùng Vương chính là thời đại kim khí cực thịnh, tổ tiên
    CHÚA) người Lạc Việt đạt được một sự tiến bộ lớn lao về phương
    diện kỹ thuật và mỹ thuật. Tổ tiên Việt Nam đã tìm được các
    Căn cứ vào lịch sử tiến hóa của nhân loại, võ học đã có một quặng mỏđồng, sắt, . và biết cách áp dụng phương pháp
    nguồn gốc sâu xa trong quá khứ, từkhi con người còn sống luyện kim (những kỹ thuật pha chế thành hợp kim) để sản
    trong các hang động, chỉ biết ăn sống thịt thú rừng, cây cỏ, và xuất ra các dụng cụ và binh khí sắt bén như: rìu đồng, trống
    sự sinh hoạt còn quá phôi thai, rời rạc. Ðó là thời tiền sử, theo đồng, đồng côn, thiết côn, dao, búa, cào bằng sắt cho các vị
    các nhà khảo cổ học, thời tiền sửđược chia ra làm bốn thời Lạc tướng và binh sĩ dùng đểđánh giặc.
    kỳ chính: Thời cựu thạch (thời đá đẽo), thời trung thạch (thời
    đá mài), và thời kim khí. Trong những di tích đào được ở các vùng đất núi Việt Nam,
    người ta nhận thấy có những món binh khí bằng kim loại rất
    Trong thời cựu thạch (đá đẽo), khởi đầu vì bản năng sinh tồn, là mỹ thuật như rìu đồng và trống đồng.
    trong cảnh sống chống chọi với thiên nhiên, mà con người
    đãbiết vận dụng sức mạnh lao động của thể xác để tự vệ và Rìu đồng là một dụng cụđể chặt chém, và cũng là một loại
    tranh đấu với các loại vật sống chung quanh mình. Từđó, các binh khí dùng đểđánh giặc. Trên những rìu đồng này, phần
    động tác và các dụng cụ thô sơ dùng làm khí giới, để chiến lớn đều được trạm trổ hình kỷ hà, hoặc là những hình ảnh
    đấu của thời khai nguyên đã được chớm nở. Mặc dù, trong sinh hoạt của con người thời đó. Những hình vẽ thường là
    thời tiền sử con người chưa biết dùng chữ viết để ghi chép lại hình ảnh bơi thuyền, nhảy múa, săn bắn thú vật, và những
    những biến cố xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, nhưng các động tác đấu võ.
    Trống đồng là một loại nhạc cụ dùng để tạo ra những âm Trung Hoa cũng được các vị thiền sư, đạo sĩ mang đến qua
    thanh hòa tấu trong những buổi lễ, đặc biệt trong thời vua hai con đường thủy và đường bộdo hai cách được ghi nhận
    Hùng Vương đã biết dùng trống đồng làm một loại binh khí như sau:
    bằng âm thanh, để khích động tinh thần tướng sĩ, cũng như ra
    hiệu lệnh cho binh sĩ trong lúc đánh nhau. Loại trống đồng - Do các đạo sĩTrung Hoa sang đất Giao Châu (Bắc Việt
    này đãđược tìm thấy rất nhiều tại các vùng đất thuộc các tỉnh Nam) để lánh nạn vì năm 189 sau Thiên Chúa, sau khi vua
    miền Bắc Việt Nam như Thanh Hóa, Hà Ðông, Bắc Ninh, Hán Linh Ðế mất, nước Trung Hoa có nhiều loạn lạc. Nhân
    Cao bằng, Hà Nam, Hà Nội, Hòa Bình, Yên Bái, Hải Dương, cơ hội này các vịđạo sĩđã giới thiệu đạo Khổng và Lão cũng
    Nghệ An . Trên mặt trống đồng có trạm vẽ hình ảnh và sự như các phương pháp thể dục dưỡng sinh, thổ nạp chân khí
    sinh hoạt của thời đó rất là đẹp đẽ. Ðiều này đã chứng tỏ (tức là cách luyện khí). Trong sốđó có ngài Mâu Bác (Meou-
    được tinh thần mỹ thuật của tổ tiên Việt Nam đã bước tiến rất Po) rất tinh thông tam giáo, về sau ngài phát tâm theo Phật
    cao xa. giáo.


    Một di tích khác mà hiện nay còn lưu lại tại tỉnh Phúc Yên - Do các vị thiền sưẤn Ðộ sang đất Giao Châu (Bắc Việt
    (Bắc Việt) đó là thành Cổ Loa, với kiến trúc cổ kính đầy tính Nam) để truyền báo đạo Phật, hoặc có một số ghé ngang qua
    cách quân sự, vòng thành xoắn theo hình trôn ốc, với sự bố trí Giao Châu, trước khi sang Tàu vào thế kỷ thứ ba. Trong số
    rất thuận lợi cho việc phòng thủ, chống giặc từ bên ngoài. các vị thiền sưẤn Ðộđược ghi nhận như Chí Cương Lương
    Ðây cũng là một di tích đã nói lên được một khoa võ học (Tche-Kiang Leang), Khương Tăng Hội (K'ang Seng Houei),
    quân sự có tổ chức trong triều đại An Dương Vương (257 - Ma Ha kỳ Vực (Marjivaka ha La Jivaka) . Vào năm 247, vua
    207 trước Thiên Chúa), với năm mươi năm làm vua, sau khi Ngô Tôn Quyền thấy ngài Khương Tăng Hội thi triển nhiều
    Thục Phán đã đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 đểđổi tiên phép lạđem lòng tín phục và xây chùa ở thành Kiến Nghiệp
    nước từ Văn Lang thành nước Âu Lạc. (Nam Kinh bây giờ) để ngài tu trì và giảng dạy Phật học.
    Trong sách Cao Tăng Truyện có ghi: Ông Ma Ha Kỳ Vực
    II. BẮC THUỘC THỜI ÐẠI (207 TRƯỚC THIÊN CHÚA gốc ởẤn Ðộ, đi du lịch các nước, đến Founan theo đường
    ÐẾN 939 SAU THIÊN CHÚA) Giao Châu và Quảng Châu (bắc Việt và Quảng Ðông bây
    giờ), đến nơi nào ngài cũng làm phép lạ. Khi đến Tương
    Sau khi đánh bại được vua An Dương Vương, Triệu Ðà là Dương, ngài muốn qua đò nhưng người lái đò thấy ngài quần
    một vị quan úy ở quận Nam Hải liền sát nhập Nam Hải vào áo rách rưới không cho xuống. Nhưng đến khi đò ngang cập
    nước Âu Lạc lập thành một nước tự chủ, đặt tên là Nam Việt, bến, mọi người đều lấy làm lạ vì thấy ngài đã ở bên này sông
    làm vua được năm đời. Ðến năm 111 trước Thiên Chúa, nhà rồi.
    Hán bên Tàu đánh chiếm nước Nam Việt rồi đổi thành Giao
    Chỉ Bộ (Giao Châu) đặt quan cai trị như các châu quận của Vào thời kỳ này, mặc dù võ học đã được mang đến do các vị
    nước Trung Hoa. thiền sư, đạo sĩ nhưng vẫn chưa được phổ biến sâu rộng trong
    dân gian.
    Vào năm 40 sau Thiên Chúa, hai chị em Trưng Trắc và Trưng
    Nhị người huyện Yên lăng, tỉnh Phúc Yên, đầu tiên cầm Mãi đến năm 580, vị thiền sư Tì Ni Ða Lưu Chi (Vinitaruci)
    gươm cỡi bạch tượng, điều khiển nghĩa quân đánh đuổi quan từ Tây Trúc đã chánh thức mang đến Việt Nam ngành đạo
    quân Thái Thú Tô Ðịnh, và chiếm được sáu mươi lăm thành thiền tông đầu tiên ở nước Việt Nam, tại chùa Pháp Vân (nay
    trì, rồi hai bà lên làm vua dành quyền độc lập, giải phóng thuộc tỉnh Bắc Ninh), truyền được 19 đời (580 - 1216). Năm
    nước nhà ra khỏi ách đô hộ của người Tàu được ba năm. Sự 820, vị sư Trung Hoa là ngài Vô Ngôn Thông đến chùa Kiến
    kiện này đã viết lên được một trang võ sửoai hùng cho dân Sơ (Bắc Ninh) lập nên thiền phái thứ hai, truyền được 14 đời
    tộc Việt Nam nói chung, và cho nữ giới Việt Nam nói riêng. (820 - 1221).


    Mãi đến năm 248 sau Thiên Chúa, noi gương hai bà Trưng, Kể từđó, các môn võ lâm cổ truyền từẤn Ðộ cũng như các
    bà Triệu Ẩu, người huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa cỡi môn Thiếu Lâm nam và Bắc phái của ngài Bồ Ðề Ðạt Ma từ
    bạch tượng mặc áo giáp vàng, cùng với một ngàn nghĩa quân Trung Hoa bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam.
    đứng lên chống với quân Thái Thú Lục Dận, cầm cự một thời
    gian ngắn, quân của bà chống cự không lại, bà đành tự tử. III. TỰ CHỦ THỜI ÐẠI (939-1802 SAU THIÊN CHÚA)
    Ðây là một điểm son thứ hai cho nữ giới trong lịch sử Việt
    Nam. Năm 939, sau khi Ngô Quyền thắng trận Bạch Ðằng Giang,
    đánh đuổi được quân Nam Hán và giết được Thái Tử Hoằng
    Năm 542, Lý Bôn, một vị anh hùng dân tộc đã đứng lên đánh Thao, Ngô Quyền đã thật sự giải phóng cho dân Việt khỏi
    đuổi quân Tàu để làm vua, dựng nên nghiệp nhà Tiền Lý. ách ngàn năm đô hộ của người Tàu, và cũng mởđường cho
    Ðến năm 602, Lý Phật Tử thuộc hậu Lý Nam Ðế vì thế yếu các triều đại Ðinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn về sau được tự chủ
    nên xin hàng phục vua nhà Tùy. Kể từđó, Giao Châu lại lệ ở phương Nam.
    thuộc nước Tàu lần thứ ba. Mãi cho đến năm 939 sau Thiên
    Chúa, người Việt mới dành lại được quyền tự chủ. Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp xong lạon thập nhị sứ
    quân, lên ngôi vua đạt lại quốc hiệu là Ðại Cồ Việt, ngài lo
    Vào thế kỷ thứ hai, song song với việc du nhập các tôn giáo việc tổ chức binh bị và chỉ thị cho binh sĩ tập trận đánh
    Phật, Khổng, Lão và Việt Nam, ngành võ học từẤn Ðộ và Trường Tiên, mà sau này dân Việt gọi là Trung Bình Tiên


    11
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...