Tài liệu Lịch sử tư tưởng việt nam một số vấn đề về tư tưởng đạo đức của nguyễn bỉnh khiêm

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM
    MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM


    Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 mất năm 1585, tự Hạnh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, còn có tên khác là Nguyễn Văn Đạt, người làng Trung An, huyện Vĩnh Lạc (nay là xã Lý học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc có học vấn, cả hai thân mẫu đều là những người có văn tài học hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thu truyền thống gia giáo kỷ cương. Nhất là phụ mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tương truyền bà là người giỏi giang văn tài và tinh thông địa lý, tướng số. Ngay khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời, thấy con mình có tương mạc khác thường, bà đã dốc lòng đào tạo con trai thành một tài năng giúp nước, cứu đời. Niềm thôi thúc đó khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm tìm thấy thầy học có đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn Dương Bắc Bằng. Với trí tuệ mẫn tiệp, thông minh từ nhỏ, lại gặp thầy giỏi khác nào như rồng gặp mây. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm thành tài năng kiệt suất nổi tiếng.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà Lê suy thoái, các phe phái trong triều đó kỵ, chém giết lẫn nhau. Năm 1572 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một triều đại mới. Thế là suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố được tài năng. Mãi tới năm 1535, lúc này đã 45 tuổi, ông mới đi thi. Ba lần thi hương, thi hội, thi Đình ông đều đỗ đầu và đỗ trạng Nguyên. Từ đấy, ông làm quan với tân triều nhà Mạc phong chức Tả Thị Lang (chức đứng hàng thứ ba trong Bộ Hình). Triều đình nhà Mạc rất trân trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm là con người quang minh lỗi lạc: khi gặp minh quân thì ra cứu nước dân dan, khi hoàn cảnh không cho phép thì lui về ẩn dật giúp đời (Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ ở triều 8 nặ, ông đã xin về trí sĩ ở quê rồi dựng am Bạch Vân và mở đường dạy học). Ở triều đình can đảm nói lời trung thực, không kể an nguy bản thân, về quê dạy dỗ dân lành, nêu gương đạo đức, làm quan hay dân, giàu hay nghèo vẫn một lòng thanh thản, an bình. Sở dĩ được như vậy, là vì Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thấm nhuần tư tưởng Nho giáo, đã nghiền ngẫm và hòa nhập tư tưởng đối với truyền thống Việt, một truyền thống yêu chuộng hòa bình, yêu lễ nghĩ, trọngu điều phải, thương đồng bào. Nhờ đó ông có thể đứng vững trước sóng gió thời cuộc, được dân chúng và vua chúa quan quyền kính trọng yêu thương. Đến nỗi khi ông mất (năm 1585, thọ 94 tuổi, vủa nhà Mạc đã cho lập từ đường để thờ và đích tay viết haonhf phi trước cổng: “Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng Từ” dù trong cuộc đời, ông chưa bao giờ làm tể tướng.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nàh tư tưởng tiêu biểu của thế kỷ XVI. Tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một khía cạnh quan trọng trong toàn bộ hệ tư tưởng của ông. Trong đó ta đi tìm hiểu quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm với chữ Trung và Nhân nghĩa.
    Thế kỷ XVI là thời kỳ đầy biến động của xã hội Việt Nam. Đất nước phân chia bởi ba tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn - Mạc, chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một đại danh nho, sinh ra trong thời bình nhưng lớn lên trong cảnh loạn ly, trước thực trạng như vậy, ông đã có những ứng xử và lý giải của mình.
    Thứ nhất: Nguyễn Bỉnh Khiêm với chữ trung.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trọn đời trong thế kỷ XVI - một thế kỷ đầy biến động của một xã hội Việt Nam, nhà Lê suy vong, các phe phái trong triều đố kỵ, chém giết lẫn nhau. Mạc Đăng Dung - một con người người có rất nhiều công trạng lúc bấy giờ đã làm cuộc đảo chính lên ngôi vua. Xem xét thời cuộc, suy ngẫm hoàn cảnh đến tận tám năm kể từ khi nhà Mạc lên ngôi. Ông nói đi thi và làm quan cho họ. Quan niệm về trung xuất phát từ thời Xuân Thu. Dân trung với vua, vua nghĩ cách làm lợi cho dân cũng là trung. Trung có nghĩa là tận tâm, thành thật giúp người chứ không phải nhất định chết theo vua mới là trung. Trong tư tưởng, trong quan niệm thời Tần Hán mang dấu ấn đậm nét trong tư tưởng các nhà Nho: Trung được hiểu là trách nhiệm tuyệt đối của bề dưới đối với bề trên của bề tôi đối với vua.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...