Tài liệu Lịch sử hình thành tỉnh quảng nam

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TỈNH QUẢNG NAM
    QUẢNG là rộng rãi, NAM là phương Nam, đối diện phương Bắc. Vậy QUẢNG NAM nghĩa là mở rộng về phương Nam. Ðịa danh Quảng Nam biểu dương một chiến lược quyết định vô cùng quan yếu của dân tộc Việt Nam.

    Quảng Nam phản ảnh trung thực tiến trình lịch sử Nam tiến không ngừng suốt mấy mươi thế kỷ, phát xuất từ Ðộng Ðình hồ, phía nam sông Dương Tử cho đến ngày nay, của dân tộc Việt Nam đã phát triển, tiến hóa và sinh tồn, hầu góp mặt xứng đáng và chính danh cùng những dân tộc anh em vùng Ðông Nam Á nói riêng và những dân tộc bạn bè trên hoàn vũ nói chung.

    Bản đồ hành chính tỉnh Quảng Nam ngày nay.
    (Click vào hình để xem chi tiết)

    Từ Ðạo QUẢNG NAM đến Tỉnh QUẢNG NAM (1301-1831)
    Thoạt tiên, năm 1306, theo lời giao ước gả Công Chúa Huyền Trân của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông (năm 1301) trong dịp viếng thăm hữu nghị Việt Nam, vua ChiêmThành là Chế Mân dâng hai châu: châu Ô và châu Rí làm sính lễ để xin cưới Công Chúa Huyền Trân.
    Năm 1307, sau nghi lễ tiễn đưa Công Chúa Huyền Trân về Chiêm Quốc, vuaTrần Nhân Tông tiếp thu hai châu Ô và Rí, di dân khẩn hoang và đổi tên là Thuận Châu (bắc Hải Vân quan) và Hóa Châu (nam Hải Vân quan). Dân Chiêm Thành bỏ đất lui về phía Nam.
    Năm 1402, sau khi tiếm ngôi nhà Trần, Hồ quý Ly chia Hóa châu, gồm đất Chiêm Ðộng, Cổ Lũy, lập thành 4 châu là Thăng Châu (Thăng Bình và phía Bắc), Hóa Châu, Tư Châu và Nghi Châu (Quảng Ngãi và phía Nam), di dân canh tác và đặt quan An Phủ Sứ cai trị. Dân Chiêm Thành lại bỏ đất lui dần về phía Nam.
    Năm 1470, Hồng Ðức nguyên niên, Vua Lê Thánh Tông sau trận đại thắng bắt được Vua Chiêm Thành là Trà Toàn, triệt để khai thác sự chia rẽ của hoàng tộc Chiêm Thành, chia Chiêm Thành ra làm ba nước nhỏ, phong ba vua: Chiêm Thành, Hóa Anh và Nam Phan, chủ đích làm suy yếu đối phương. Lại lấy Hóa Châu gồm đất Chiêm Ðộng, Ðồ Bàn, Ðại Chiêm và Cổ Lũy lập thành đạo Quảng Nam (địa danh Quảng Nam bắt đầu xuất hiện trên lịch sử Việt Nam từ đây). Ðạo Quảng Nam gồm có 3 phủ và 9 huyện (tiền thân của Nam, Ngải, Bình, Phú sau này) và đặt quan cai trị.
    Năm 1570, Chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Ðạo Quảng Nam, truyền nối con cháu (Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Chu, .) lấn dần vào Nam, xâm chiếm trọn vẹn nước Chiêm Thành, lập phủ Diên Khánh (Khánh Hoà), phủ Bình Thuận, huyện Yên Phúc và huyện Hòa Ða (Bình Thuận).
    Năm 1744, Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát, sau khi chiếm được Hà Tiên, Rạch Giá, chia nước ra làm 12 dinh: Chính dinh (Thừa Thiên), Cựu dinh (Ái Tử), Quảng Bình dinh, Vũ Xá dinh, Bố Chính dinh, Quảng Nam dinh (Quảng Ngãi phủ và Qui Nhơn phủ), Phú Yên dinh, Bình Khang dinh, Bình Thuận dinh
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...