Thạc Sĩ LÍ LUẬN DẠY HỌC- Trần Văn hỘ

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    I. Khái niệm về lí luận dạy học
    Lí luận dạy học là một bộ phận cấu thành khoa học giáo dục, nó bao gồm một hệ
    thống những tri thức phản ánh tính quy luật của hoạt động dạy học như quá trình dạy
    học, mục đích dạy học, nội dung dạy học, nguyên tắc dạy học, phương pháp và
    phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học, vai trò giáo dục của quá trình dạy
    học và những điều kiện thuận lợi cho hoạt động học tập, sáng tạo của người học.
    Lí luận dạy học được hình thành và phát triển từ thực tiễn dạy học của các bác
    học, nó kế thừa những quan điểm dạy học tiến bộ của các nền giáo dục trước đây, tổng
    kết thực tiễn để xây dựng các luận điểm khoa học cho quá trình dạy học hiện nay và
    dự báo những xu thế phát triển của dạy học trong tương lai.
    Nghiên cứu lí luận dạy học giúp chúng ta tìm ra những cơ sở khoa học của dạy
    học để từ đó áp dụng vào thực tiễn dạy học, tạo ra những biện pháp có tính khả thi cho
    những hoạt động cụ thể của quá trình dạy học, góp phần nâng cao chất lượng của việc
    dạy học, phát triển nhân cách toàn diện của học sinh. Nghiên cứu lí luận dạy học là
    tiếp cận với một phương tiện trọng yếu nhất, có chức năng trau dồi học vấn, phát triển
    năng lực nhận thức nhờ sự tác động qua lại giữa thầy và trò, giữa truyền thụ và lĩnh hội
    hệ thống tri thức khoa học, kĩ năng, kĩ xảo nhận thức và thực hành. Như vậy có thể
    nói, lí luận dạy học là khoa học về trí dục và dạy học, lấy trí dục và quá trình dạy học
    làm đối tượng nghiên cứu.
    Trong lí luận dạy học, có hai ngành chủ yếu là Lí luận dạy học đại cương và Lí
    luận dạy học bộ môn. Nhiệm vụ chủ yếu của Lí luận dạy học đại cương là nghiên cứu
    quá trình dạy học xét trong toàn bộ, xác định những quy luật chung nhất của quá trình
    này trên tất cả các môn học, bậc học và chỉ ra những điều kiện cần thiết để ứng dụng
    chúng trong thực tiễn dạy học. Chính vì thế, những quy luật chung nhất của sự dạy học
    do lí luận dạy học đại cương đưa ra chưa thể phản ánh hết mọi khía cạnh đặc thù, cụ
    thể của việc dạy và học các bộ môn, với các cấp học tương ứng, bởi vậy cần có những
    ngành khác nhau của lí luận dạy học, gọi là Lí luận dạy học bộ môn (trước đây còn gọi
    là Giáo học pháp), nghiên cứu những biểu hiện cụ thể, những quy luật chung của quá
    trình dạy học vào bộ môn, cụ thể vào bậc học của mình. Chẳng hạn: Lí luận dạy học ở
    trường phổ thông, Lí luận dạy học đại học, Lí luận dạy học sản xuất, Lí luận dạy học
    quân sự, Lí luận dạy học toán, Lí luận dạy học văn v.v . Nhờ có sự tác động giữa Lí
    3
    luận dạy học đại cương và Lí luận dạy học chuyên ngành (bộ môn), những quy luật
    chung của dạy học dần được khái quát hơn nhờ sự tích tụ những sự kiện, hiện tượng
    xuất hiện trong quá trình dạy học môn học, cấp học và ngược lại, sự sáng tạo, tìm kiếm
    ra những cái mới trong hoạt động thực tiễn luôn có sự định hướng của những quy luật
    chung nhất. Sự phối hợp này không chồng chéo lên nhau mà chỉ là sự tổng hợp, khái
    quát hóa hoặc cụ thể hóa nhờ phương pháp nhận thức và nghệ thuật ứng dụng trong
    thực tiễn.
    II. Khái niệm chung về quá trình dạy học
    1. Dạy học và ý nghĩa của nó
    Trong quá trình sống và tồn tại, con người có thể tiếp nhận kinh nghiệm sống
    một cách tự nhiên nhờ quá trình giao tiếp và hoạt động với cộng đồng. Mỗi cá nhân,
    ngay từ bé đã tiếp nhận được những kĩ năng, kĩ xảo về ngôn ngữ, về lao động sản xuất,
    về cách thức chung sống giữa người với người, giữa người với tự nhiên. Trải qua thời
    gian, cá nhân có sự sàng lọc những gì có lợi cho mình, giúp mình tồn tại trong các mối
    quan hệ xã hội, thiết lập được những kinh nghiệm sống bao gồm một hệ thống tri thức
    và kĩ năng thực hành nhờ chỉ dẫn của người lớn, người có kinh nghiệm, bằng sự bắt
    chước, tập dượt để đạt tới sự đúng - sai, giữ lại hoặc loại bỏ. Năm tháng kế tiếp nhau
    và thế hệ này truyền lại cho thế hệ khác, tri thức được cá nhân nhận biết, lĩnh hội,
    thông hiểu và vận dụng như sức mạnh của bản thể bằng con đường tự nhiên là cả một
    phần có khi nhiều thế hệ. Con người đã tiêu tốn hàng bốn ngìn năm để tích lũy kinh
    nghiệm làm nông nghiệp, ba trăm năm cho kinh nghiệm làm công nghiệp và còn ngắn
    hơn nữa cho những cuộc cách mạng tiếp theo. Cũng chính trong quá trình tìm kiếm
    con đường tồn tại, loài người đã ngày một nhận thức rõ hơn rằng, phải truyền lại cho
    lớp trẻ những kinh nghiệm của mình không chỉ bằng sự tùy tiện, tự phát của mỗi đứa
    trẻ mà công việc này cần phải được tổ chức lại để kinh nghiệm của đời sống được
    nhiều đứa trẻ cùng lĩnh hội trong những không gian và thời gian được ấn định chặt chẽ
    và phải có một đội ngũ những người chuyên làm nhiệm vụ truyền đạt kinh nghiệm đó.
    Nói một cách khác, cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội, con người đã biết gìn giữ
    những di sản của quá khứ và hiện tại bằng con đường tự giác, thông qua con đường
    dạy học. Điều đó cũng có nghĩa là việc lĩnh hội tri thức, kĩ năng hoạt động của tuổi trẻ
    có thể thực hiện bằng nhiều hình thức (tự phát hoặc tự giác), song, dạy học là con
    đường tối ưu nhất giúp cho tuổi trẻ tiếp cận, nắm vững kinh nghiệm xã hội được phản
    ánh trong các khái niệm khoa học do loài người tích luỹ với sự tham gia điều chỉnh
    hợp lí về mặt tổ chức trong những khoảng thời gian xác định họ đạt với mục đích do
    nhu cầu xã hội đặt ra với từng trình độ nhận thức tương ứng. Học tập là công việc suốt
    đời, học bằng nhiều cách, nhưng cách tốt nhất, đem lại hiệu quả nhanh chóng nhất cho
    mỗi người là sự học tập đặt ra trong quá trình dạy học dược tổ chức theo một kế hoạch
    chặt chẽ, thực hiện một nội dung bao gồm những tri thức phổ thông cơ bản, những kĩ
    năng - kỹ xảo hoạt động nhờ một hệ thống các tác động sư phạm của đội ngũ giáo
    4
    viên. Chính nhờ quá trình dạy học mà tuổi trẻ dễ dàng, nhanh chóng có được trong kho
    tàng nhận thức của bản thân một hệ thống những chân lí khoa học và kĩ năng sống
    được tích tụ qua thời gian của nhiều thế hệ và các nhà khoa học. Quá trình dạy học tạo
    điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhận thức của người học, họ vừa lĩnh hội những tri
    thức khoa học đã được loài người tích luỹ, vừa hình thành phương pháp nhận thức thế
    giới khách quan làm cơ sở cho những hoạt động sáng tạo sau này.
    Học tập là một quá trình hoạt động căng thẳng của tư duy
    Muốn đạt tới mục đích học tập, cho dù là rất nhỏ (giải một bài tập, học thuộc một
    công thức v.v .). người học tập phải tập dượt cách suy nghĩ thông qua các thao tác trí
    tuệ. từ nhận biết, so sánh, phân tích, tổng hợp đến cụ thể hóa đến khả năng dự đoán,
    bảo vệ chân lý do mình đề xuất v.v . Tất thảy những gì có được về phương pháp nhận
    thức, về tư duy là kết quả tất yếu của một quá trình học tập lâu dài, bền bỉ.
    Có thể nói, dạy học là phương tiện đem lại hiệu quả lớn lao trong việc phát triển
    hệ thống năng lực hoạt động trí tuệ của người học.
    Một khi người học đã tích lũy được một khối lượng tri thức cần thiết có được
    một trình độ nhận thức xác định, họ có thể nhận thức thế giới khách quan một cách sâu
    sắc hơn. Tính quy luật của những gì đang tồn tại và vận động quanh họ được dần sáng
    tỏ, sự thích ứng của họ với tự nhiên, với xã hội vừa được định hướng theo những quan
    điểm chính thống của thời đại, vừa mang màu sắc cá nhân. Nói cách khác nhờ sự tăng
    trưởng về lượng và chất thông qua dạy học ở người học, dần dần hình thành những
    quan điểm sống, thế giới quan, nhân sinh quan và những phẩm chất đạo đức phù hợp
    với những gì của môi trường sống đang quy định của họ. Dạy học góp phần vào việc
    nâng cao trình độ học vấn cho người học nhưng cùng với nó là sự hình thành bộ mặt
    nhân cách cho mỗi cá nhân, giúp họ sống có ích cho bản thân họ và cho cộng đồng xã
    hội. Dạy học không đồng nhất với dạy người nhưng là phương tiện cơ bản giúp cho
    mỗi cá nhân trở thành con người xã hội theo đúng nghĩa của nó.
    2. Nhiệm vụ dạy học
    a) Những cơ sở để xác định nhiệm vụ dạy học
    Nhiệm vụ dạy học trong nhà trường phổ thông được xây dựng dựa trên những cơ
    sở sau:
    - Những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với giáo dục - đào
    tạo trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
    - Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992).
    - Luật Giáo dục (1998), Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng (2001) và
    Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2002 đã chỉ rõ những quan điểm chỉ đạo
    phát triển giáo dục nước ta, đó là:
    + Giáo dục là quốc sách hàng đầu: Với quan điểm này, Đảng ta đã coi phát triển
    5
    giáo dục là nền tảng cho quá trình tạo đựng nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây chính
    là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
    hóa, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
    Ngày nay, giáo dục đang trở thành một bộ phận của cấu trúc hạ tầng xã hội, là tiên đề
    quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực xã hội như chính trị, kinh tế, văn
    hóa, an ninh quốc phòng, v.v .
    Trong một phạm vi xác định, giáo dục cũng cần được coi là một loại dịch vụ, bởi
    nó liên quan tới nhu cầu thị trường lao động, chi phí vốn và lợi nhuận thông qua quá
    trình đào tạo. Giáo dục còn là một hộ phận phúc lợi xã hội mà mọi thành viên trong xã
    hội đều được hưởng thụ tùy thuộc vào trình độ phát triển của sản xuất và khả năng đáp
    ứng của nền kinh tế cũng như vai trò điều tiết của Nhà nước thông qua hệ thống
    trường, lớp, quy mô phổ cập giáo dục, v.v .
    + Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại theo định
    hướng XHCN, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng:
    Mục tiêu, lí tưởng chung của đất nước ta là xã hội chủ nghĩa và độc lập dân tộc.
    Đây cũng chính là mục tiêu cơ bản, lâu dài của sự nghiệp giáo dục. Mục tiêu này được
    thể hiện trên hai phương diện:
    Về phương diện xã hội: Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội
    bình đẳng để ai cũng được học hành. Nhà nước có cơ chế, chính sách giúp đỡ người
    nghèo học tập, khuyến khích những người học giỏi phát triển tối đa năng lực của bản
    thân.
    Về phương diện phân cách: Con người Việt Nam trong thời kì CNH, HĐH và
    hội nhập quốc tế phải có lí tưởng xã hội chủ nghĩa và lòng tự tôn dân tộc; có năng lực
    hoạt động xã hội và phẩm chất đạo đức trong sáng, năng động, sáng tạo, biết phát huy
    bản sắc của văn hóa dân tộc bên cạnh sự tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; có ý
    thức và khả năng chung sống trong cộng đồng; có tác phong công nghiệp; có ý thức tổ
    chức, kỉ luật; có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp; có ý thức công dân; có sức khỏe
    để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
    + Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ
    khoa học, công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh, đảm bảo sự hợp lí về cơ cấu trình
    độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở đảm bảo chất
    lượng và hiệu quả kết hợp giữa đào tạo và sử dụng. Thực hiện nguyên lí học đi đôi với
    hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục
    nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
    + Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân theo quan điểm
    nâng cao: Xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người. Ở mọi lứa tuổi, mọi
    trình độ được học thường xuyên, học suốt đời. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát
    triển sự nghiệp giáo dục đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục.
    6
    Những quan điểm nêu trên của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp giáo dục
    phải được quán triệt trong việc đề ra những nhiệm vụ dạy học nhằm hướng tới mục
    đích đào tạo có chất lượng, có hiệu quả thế hệ trẻ, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp
    CNH, HĐH, chấn hưng đất nước, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, tiến kịp
    các nước trong khu vực và trên thế giới.
    Học thuyết Mác - Lênin về con người phát triển toàn diện và hài hòa mục đích
    giáo dục cộng sản. Từ những điều kiện phát triển của nền kinh tế tư bản cách đây hàng
    thế kỉ, C.Mác đã tiên đoán về mục tiêu đào tạo của nhà trường tương lai, đó là phải
    hình thành những con người có trình đó nọc vấn lý luận tổng hợp và có nhận cách phát
    triển toàn diện. Theo C.Mác, giáo dục bao gồm ba việc: một là trí dục, hai là thể dục,
    ba là kĩ thuật nhằm giới thiệu cho thanh thiếu niên những nguyên lí cơ bản của tất cả
    các quá trình sản xuất, đồng thời làm cho các em quen sử dụng những công cụ đơn
    giản nhất của tất cả các ngành sản xuất"1. Phân tích về các quy luật hình thành con
    người. C.Mác đã chỉ cho chúng ta thấy những quan điểm hết sức cơ bản, rằng bản chất
    con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội; con người là sản phẩm của xã hội, đồng
    thời là chủ thể có ý thức của xã hội; Hoàn cảnh sống tạo ra con người trong chừng
    mực con người tạo ra hoàn cảnh. Những quan điểm của C.Mác làm sáng tỏ những mối
    quan hệ biện chứng giữa đối tượng giáo dục với xã hội cũng như mối quan hệ giữa chủ
    thể (giáo viên) và khách thể (học sinh) trong quá trình đào tạo. Gắn lí luận với thực
    tiễn, học đi đôi với hành, là thực hiện mối quan hệ thứ hai. Rõ ràng quan điểm của chủ
    nghĩa C.Mác còn đầy đủ tính đúng đắn của nó đối với, các mặt của hoạt động giáo dục
    trong hiện tại và lương lai. Tiếp nối những quan điểm của C.Mác, V.I. Lênin khi nói
    tới việc đào tạo thế hệ trẻ, trong những điều kiện mới của cuộc cách mạng xã hội chủ
    nghĩa, Người đã chỉ huấn cho chúng ta: "Đoàn Thanh niên và tất cả thanh niên nói
    chung muốn tiến lên cộng sản chủ nghĩa, phải học tập cộng sản chủ nghĩa v.v . chỉ có
    thể trở thành người cộng sản khi anh làm giàu trí nhớ của mình bằng tất cả các kho
    tàng kiến thức mà loài người đã tích lũy được". Để trả lời cho câu hỏi "Học như thế
    nào?", Lênin đã nhấn mạnh rằng: "không làm việc, không đấu tranh thì những kiến
    thức sách vở về cộng sản chủ nghĩa ., sẽ chẳng đáng giá gì hết . chỉ có trong lao động
    với công nhân và nông dân thì mới có thể trở thành người cộng sản chân chính". Lênin
    kêu gọi thanh niên hãy tự mình học hỏi một cách sáng tạo, nghiêm túc, thường xuyên.
    Người viết: "Người cộng sản sẽ chỉ là một anh chàng khoác lác đơn thuần, nếu tất cả
    những kiến thức thu lượm được không được anh ta xử lí trong ý thức của mình", vì
    cộng sản chủ nghĩa đối với thanh niên không phải những cái mà thanh niên học được,
    mà là cái do thanh niên tự mình nghiền ngẫm ra, là những kết luận tất yếu phải rút ra
    trên quan điểm của nền giáo dục hiện đại"2. Người còn khẳng định rằng: " . nếu thiếu
    một tính tự lực đầy đủ thì thanh niên sẽ không thể nào rèn luyện mình trở thành những
    1 C.Mác - Ăngghen . Sđd. Tập VIII. Tr.199
    2 V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 41
    7
    con người xã hội chủ nghĩa tốt và chuẩn bị cho mình đủ trình độ đưa xã hội chủ nghĩa
    tiến lên"1.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...