Chuyên Đề Lí luận chung về cho vay tài trợ giải quyết việc làm

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tên đề tài
    Lí luận chung về cho vay tài trợ giải quyết việc làm

    1.1. Giải quyết việc làm, sự cần thiết của chương trình cho vay tài trợ giải quyết việc làm (CVTTGQVL)
    1.1.1. Lý luận chung về lao động, việc làm và thất nghiệp
    Từ xa xưa, loài người đã tách khỏi thế giới loài vật khi biết tìm lửa để sưởi ấm và nấu chín thức ăn, biết nuôi trồng để có thức ăn dự trữ, . Và cho tới tận bây giờ lao động vẫn là . và nghĩa vụ của mỗi con người ở độ tuổi lao động bởi lao động giúp con người tồn tại và phát triển.
    Lịch sử loài người đã ghi nhận tính xã hội hoá cao của lao động kéo theo đó là tính xã hội hoá cao của việc làm. Do đó, phải có sự nhận thức đúng đắn về vấn đề việc làm.
    Trên thế giới có rất nhiều quan niệm khác nhau về việc làm.
    - Theo tiến sĩ Sonhin và PTS.G.Rin Xốp (người Nga) thì: "Việc làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong khu vực xã hội hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh tế phụ của các nông trang viên".
    - Hay theo Ghi-Hân-Tô ở Viện phát triển Hải ngoại Luân Đôn định nghĩa: "Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì quan hệ cách kiếm sống của con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế".
    Hai quan điểm trên ngoài tính tích cực đã bộc lộ sự bất hợp lý. Quan điểm thứ nhất công nhận học tập cũng là lao động nhưng những người lao động lại không tạo ra được thu nhập để nuôi sống được bản thân thì chưa được gọi là lao động. Còn quan điểm 2 lại làm mọi người lẫn lộn giữa việc làm hợp pháp và không hợp pháp. Khi mà tệ nạn xã hội còn là vấn đề bức bách trong xã hội hiện đại thì khó mà thừa nhận quan niệm này.
    Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, quan niệm về việc làm cũng thay đổi một cách căn bản. Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 (1983) tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra khái niệm: "Người có việc làm là những người làm một việc gì đó có được trả công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật lao động".
    Trên cơ sở vận dụng khái niệm đúng đắn trên và nghiên cứu cụ thể điều kiện ở Việt Nam, trong chương 2 điều 13 của "Bộ Luật lao động" của nước ta đã ghi rõ "Việc làm là mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập mà không bị pháp luật ngăn cấm".
    Hàng ngày có 1 số người mất việc, bỏ việc, song cũng có 1 số người tìm được việc làm, sự biến đổi lên xuống tự nhiên đó quyết định tới tỷ lệ lưu lượng lao động có việc làm.


    Kết luận chung
    Qua hơn 4 năm thực hiện công tác CVGQVL tại KBNNTX đã được nhiều thành công đáng kể. 178 dự án đã được thực hiện và hầu hết đều đã thu nợ đúng đủ với tổng số tiền cho vay là 11.335.000.000 đồng. KBNNTX đã góp phần taọ việc làm cho hơn 6.200 lao động thiếu việc làm trong quận . Đó là 1 đóng góp đáng kể dẫn tới kết quả giảm hướng gia tăng tỷ lệ thất nghiệp trong quận từ 4,12% = 3776 người năm 1997 chỉ tăng mỗi năm từ 1% đến 1,2% (tỷ lệ thất nghiệp năm 1999 là 6,5%). Không những số lượng người lao động tăng lên mà công tác CVGQVL còn tăng. chất lượng lao động. Người lao động có việc làm sẽ có điều kiện áp dụng những học hỏi của mình vào thực tế , có điều kiện thực hành nâng cao tay nghề.
    Có được những kết quả trên phải kể đến là sự định hướng chủ trương của NQ 120 /HĐBT rất phù hợp với dự án nhỏGQVL tại địa phương và thực tế đã khẳng định tính khoa học đứng đắn trong những chính sách định hướng chương trình mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và của nhà nước. Ngoài ra KBNNTX đã tổ chức thực hiện chặt chẽ các quy định chế độ thể lệ của chương trình CV hỗ trợ giải quết việc làm. Công tác thẩm định dự án của KB có chú ý chiều sâu và tính khả thi cấp phát tiền vay đúng chế độ, tích cự kiểm tra việc thực hiện vốn vay và có biện pháp kịp thời ngăn chặn nợ quá hạn đảm bảo được việc quản lý an toàn vốn sử dụng hiệu quả. Đó là nhờ sự chỉ đạo trực tiếp, đúng đắn của ban lãnh đạo KBnn TX và tính chủ động, có trách nhiệm của cán bộ nghiệp vụ. Việc phân bổ nguồn vốn vay hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của Quận, phát huy, vận dụng được tiềm năng của Quận Thanh xuân.
    Bên cạnh những kết quả đã đạt đựơc, công tác CVGQVL tại KB cũng gặp phải không ít khó khăn KBNNTX. Mới thành lập nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu tình trạng khiến cán bộ nghiệp vụ CVGQVL tại KB phải cáng đáng nhiều công tác khác nên không tập trung cao độ vào công việc được. Ngoài ra do đặc điểm kinh tế xã hội của một quận ven đô, cơ cấu dân cư, cơ cấu kinh tế phức tạp làm cho việc phân bổ và thẩm định vốn gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa trình độ dân cư tại địa bàn còn thấp gây nên những nhận thức vào việc làm sai lệch trong quá trình sử dụng vốn vay. Cuối cùng là do cơ chế chính sách của nhà nước về cho vay GQVL khi áp dụng vào địa phương còn nhiều bất cập nên tạo ra một khó khăn không nhỏ tới việc thực hiện CVGQVL tại KB.
    Với số lao động thất nghiệp hiện nay ngần quận Thanh Xuân đòi hỏi KBNNTX cần nỗ lực hơn nữa trong công tác CV hỗ trợ GQVL để giải quyết việc làm cho người lao động nhằm phát triển kinh tế địa phương hạn chế những tệ nạn xã hội .
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...