Tài liệu Lại bàn về bài học từ Hiến pháp 1946

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Lại bàn về bài học từ Hiến pháp 1946




    Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành sửa đổi hiến pháp, nhiều học giả và một số nhà hoạt động chính trị đề nghị kế thừa những giá trị của Hiến pháp năm 1946 của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bài viết này bàn về cơ sở của những giá trị đó và gợi mở một số điều cho tương lai sửa đổi hiến pháp ở Việt Nam.


    1. Điều gì làm nên giá trị của Hiến pháp 1946?




    Những giá trị nội dung của bản Hiến pháp 1946 có thể được tóm lược ở mấy điểm sau đây: nguyên tắc chủ quyền lập hiến thuộc về nhân dân; phân công quyền lực mạch lạc giữa ba cơ quan Nghị viện nhân dân, Chính phủ, và Tòa án; những hình thức kiểm soát quyền lực như chế độ bất tín nhiệm Nội các, chế độ phủ quyết tương đối các luật của ngành lập pháp; chế độ tư pháp độc lập; các dân quyền cơ bản.


    Tại sao bản Hiến pháp 1946 lại có thể đạt được những giá trị như vậy? Một số ý kiến có thể cho rằng điều này bắt nguồn từ chỗ bản hiến pháp được soạn thảo bởi những con người ưu tú của dân tộc vào thời điểm đó dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh- Chủ tịch Ủy ban Dự Thảo Hiến pháp. Điều này có phần đúng, nhưng có những lý do có tính chất bản chất hơn.


    Một bản hiến pháp thành văn, nếu thực sự chính đáng, không gì hơn là sự biểu đạt thành ngôn ngữ của luật cơ bản một trật tự, một trạng thái và những mong muốn thực tế của một cộng đồng chính trị. Hơn một trăm năm trước đây, GS Christopher Tiedeman (1857-1903), một nhà hiến pháp học kinh điển của nước Mỹ, đã cho rằng: “các hiến pháp chỉ hiệu quả khi các nguyên tắc của nó cắm rễ trong đặc tính của quốc gia, và do đó, là một sự phản ánh trung thành của ý chí quốc gia.”[1] Tiedeman gợi lại rằng lịch sử nhân loại không thiếu những trường hợp hiến pháp được áp đặt một cách tùy tiện lên người dân và do vậy không hiệu

    quả do không phản ánh những mong muốn thực sự của người dân. Để minh chứng, nhà hiến pháp học này đưa ra trường hợp Locke soạn thảo hiến pháp cho người Carolinas mà những nguyên tắc của nó không phù hợp với người bản địa và trường hợp Napoleon Bonaparte soạn thảo hiến pháp cho những vùng chiếm đóng[2].


    Trên cơ sở nguyên tắc chung đó, chúng tôi cho rằng điều thực sự tạo nên giá trị của Hiến pháp 1946 chính là ở chỗ bản hiến pháp này phản ánh một cách trung thành trạng thái chính trị và những nhận thức, mong muốn của người dân Việt Nam vào thời điểm đó về những giá trị hiến pháp dân chủ, mà điều này đến lượt nó là kết quả của cả một quá trình vận động hiến pháp lâu dài gần 40 năm của các khuynh hướng khác nhau trước khi bản hiến pháp được ban hành vào ngày 09 tháng 11 năm 1946. Dưới đây, chúng tôi sẽ giải thích cụ thể luận điểm này.


    Từ những năm đầu của thế kỷ 20 cho đến trước khi bản Hiến pháp 1946 ra đời, Việt Nam chứng kiến những cuộc thảo luận về hiến pháp và tương lai của hiến pháp ở quốc gia có lẽ đa dạng và sôi nổi chưa được lập lại có cho đến lúc này. Thông qua những cuộc thảo luận này, những giá trị của chủ nghĩa hợp hiến (constitutionalism) hiện đại được du nhập vào Việt Nam, khơi dậy những nhận thức, mong muốn trong nhân dân và thúc đẩy những vận động thực tế về các giá trị hiến pháp dân chủ.


    Nửa đầu thế kỷ 20, khi Việt Nam còn là một nước thuộc địa-nửa phong kiến, chủ nghĩa hợp hiến hiện đại đã được du nhập mạnh mẽ vào Việt Nam bắt nguồn từ những sự ảnh hưởng khác nhau. Trước tiên đó là sự ảnh hưởng từ những cuộc cải cách hiến pháp ở những quốc gia đồng văn như Nhật Bản và Trung Quốc. Cuộc cách mạng Minh Trị (1868-1898 ) trong vòng 30 năm đã chuyển Nhật Bản từ một tập hợp của các vương quốc phong hiến phi tập trung thành một nhà nước tư bản hiện đại. Xét về mặt chính trị và pháp lý, nó đã thiết lập một chính quyền hợp hiến có nhiều điểm tiếp cận với những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa hợp hiến

    phương Tây hiện đại. Vào thời điểm diễn ra cách mạng Minh trị, những người yêu nước Việt Nam còn đang phải vật lộn với những cuộc khởi nghĩa sớm thất bại như phong trào Cần Vương nên chỉ có những ý tưởng lờ mờ về duy tân Nhật Bản. Phải đến khi Nhật chiến thắng trong chiến tranh Nga- Nhật (1904-1905), người Việt yêu nước mới bừng tỉnh về sức mạng của hiện đại hóa trong việc gìn giữ độc lập. Điều này dẫn đến sự quan tâm của người Việt yêu nước đối với duy tân Nhật Bản nói chung và Hiến pháp Minh Trị nói riêng.


    Cùng với duy tân Minh Trị, cách mạng Trung Quốc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy người Việt yêu nước tìm đến những giá trị hiện đại, gồm cả các giá trị hiến pháp. Họ đặc biệt hứng thú với Cuộc cách mạng 100 ngày dưới sự lãnh đạo của Khang Hữu Vi, Cách mạng Tân Hợi của Tôn Trung Sơn, và cải cách hiến pháp dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Lương Khải Siêu.


    Cánh mạng Nhật Bản và Trung Quốc thúc đẩy người Việt yêu nước hồi đầu thế kỷ trước tìm đến Tân thư, những sách chứa đựng những kiến thức mới, gồm cả các kiến thức về hiến pháp, chính trị, luật pháp, được du nhập vào Nhật Bản, tràn sang Trung Quốc, rồi từ kênh này vào Việt Nam qua những cảnh Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng, nơi có đông đảo Hoa kiều và có cả những đoàn thể cách mạng Trung Quốc.[3] Thông qua làn sóng Tân thư, những tác phẩm quan trọng của chủ nghĩa hợp hiến phương Tây như Tinh thần pháp luật của Montesquieu và Khế ước xã hội của Rousseau đã được người Việt yêu nước đón nhận nồng nhiệt, với nhan đề được dịch lúc đó là Vạn pháp tinh lý và Xã ước. Cũng thông qua Tân thư, người Việt yêu nước ý thức được sự thực hành của chính quyền hợp hiến ở các quốc gia Âu Mỹ và sự đang mở rộng của nó ở các quốc gia Phương Đông.


    Hơn nữa, vào đầu thế kỷ XX, việc giao lưu văn hoá được phát triển, mở ra điều kiện cho nhiều nhà trí thức Việt Nam đi nước ngoài, từ những nước phương Đông sớm có chính quyền hợp hiến như Nhật Bản hoặc đang tranh đấu cho chính quyền hợp hiến như Trung Quốc đến những nước là quê hương của chính quyền hợp hiến

    như Pháp, Mỹ. Phan Bội Châu đã đi Hồng Công rồi sang Nhật Bản, mở ra phong trào Đông Du. Phan Châu Trinh cũng sang Hồng Công rồi từ đó cùng Phan Bội Châu sang Nhật Bản, và sau sang Pháp 14 năm. Hồ Chí Minh cũng có nhiều năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tận mục sở thị thực tiễn của các chính quyền hợp hiến ở Pháp, Mỹ. Nhiều trí thức đến nước Pháp du học: Nguyễn An Ninh tốt nghiệp cử nhân luật học Đại học Sorbonne, Paris, 1920; Phan Văn Trường đỗ tiến sĩ luật học tại Pháp; Luật sư Phan Anh cũng đã chuẩn bị bảo vệ luận án tiến sĩ luật học ở Pháp năm 1938 do Thế chiến thứ nhất bùng nổ nên phải về nước. Một số người khác cũng đến Pháp trong một số hoạt động khác: Nguyễn Văn Vĩnh sang Pháp dự hội nghị đấu xảo Marseille năm 1906; Phạm Quỳnh cũng đã sang Pháp dự triển lãm năm 1922.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...