Đồ Án Kỹ thuật lập trình

Thảo luận trong 'Công Nghệ Thông Tin' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Lịch sử phát triển của tin học luôn gắn liền với việc tìm kiếm các phương pháp lập trình để
    giúp cho người sử dụng triển khai cac ứng dụng một cách dễ dàng , nhanh chóng và hiệu quả .
    Như chúng ta đã biết , mỗi loại máy tính (sử dung loại CPU – Central Processing Unit xác
    định) chỉ có thể hiểu và thực hiện trực tiếp được các lệnh cũng như trương trình theo một loại
    noon ngữ dành riêng được gọi là noon ngữ máy . Tuy nhiên nếu thực hiện các ứng dụng trong
    thực tế mà phải viết chương trình trực tiếp bằng ngôn ngữ máy thì sẽ rất phức tạp , đòi hỏi thời
    gian và công thức rất lớn , nhiều khi không thể thực hiện được . Vì vây người ta tìm cách xây
    dựng một ngôn ngữ lập trình riêng , gần với các ngôn ngữ tự nhiên , thuận lợi cho việc triển khai
    các ứng dụng . Khi thực hiện các chương trình bằng ngôn ngữ này phải qua một bước dịch
    chương trình đó sang ngôn ngữ máy để nó có thể thực hiện . Từ trước đến nay có rất nhiều ngôn
    ngữ lập trình được ra đời va phục vụ đắc lực cho việc triển khai các ưng dụng trên máy tính .
    Sau đây , chúng ta sẽ đi tìm hiểu về 5 mô hinh lập trình sau :
    · Visual paradigm
    · Parallel paradigms
    · Concurrent programming
    · Distributed programming
    · Extreme programming
    1.Giới thiệu về Visual Paradigm .
    Lĩnh vực lập trình trực quan là sự kết hợp giữa đồ hoạ máy tính, ngôn ngữ lập
    trình và tương tác người máy. Nó được tạo ra từ nhiều nghiên cứu độc lập và có
    nhiều công trình nghiên cứu được xem là tiên phong trong lĩnh vực này.
    Một nghiên cứu đầu tiên trong lĩnh vực này là hệ thống Sketchpad của Ivan
    Sutherland vào năm 1963. Sketchpad đã được thiết kế và thực hiện trên máy tính TX-2 tại
    MIT và nó được xem là ứng dụng đồ hoạ đầu tiên trên máy tính. Hệ thống cho phép người
    sử dụng làm việc với một bút vẽ để tạo ra các hình ảnh trong không gian 2 chiều (2D)
    đơn giản như đường thẳng, đường tròn các xử lý như sao chép và các phép biến đổi hình
    học khác trên các hình vẽ này.
    Từ năm 1965, Em trai của Ivan Sutherland là William đã sử dụng máy tính TX-2 để phát
    triển một ngôn ngữ đặc tả dòng dữ liệu trực quan đơn giản. Hệ thống cho phép người sử
    dụng khởi tạo, dò lỗi và thực thi các biểu đồ dòng dữ liệu trong môi trường trực quan.
    Kế tiếp , năm 1975 , với việc công bố luận án tiến sĩ của David Canfield Smith với tiêu đề
    “Pygmalion: A Creative Programming Environment” . Công việc của Smith đánh dấu sự
    khởi đầu của một loạt các nghiên cứu trong lĩnh vực này cho đến ngày hôm nay.
    2.Phân loại các ngôn ngữ lập trình trực quan
    Khi lĩnh vực VPL đã chín muồi, ngày càng nhiều những nghiên cứu hướng đến việc
    sáng tạo mạnh mẽ hơn cũng như những tiêu chuẩn để phân loại những công việc trong lĩnh vực
    này. Một hệ thống phân loại không chỉ giúp các nhà nghiên cứu trong việc xác định các công
    việc liên quan mà còn cung cấp một ranh giới để so sánh và đánh giá các hệ thống khác nhau.
    Mộtsố tên tuổi có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực này như Chang, Shu, và
    Burnett. Họ đã phân loại và đưa ra những định nghĩa để xác định đặc trưng các nhóm chính
    của VPL.
    Sau đây là sự phân loại các ngôn ngữ lập trình trực quan chính:
    - Các ngôn ngữ trực quan thuần tuý
    - Những hệ thống lai giữa trực quan và văn bản (text)
    - Những hệ thống lập trình bằng ví dụ
    - Những hệ thống ràng buộc đối tượng
    - Những hệ thống được xây dựng dựa trên các biểu mẫu (form)
    Lưu ý rằng việc phân loại trên là không loại trừ lẫn nhau. Do đó, có nhiều ngôn ngữ có
    thể thuộc nhóm này nhưng cũng có thể thuộc nhóm khác.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...