Thạc Sĩ Kinh nghiệm của ngân hàng Mizuho Corporate, Ltd và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 24/6/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận văn thạc sỹ kinh tế: Quản trị chi nhánh tại ngân hàng đa quốc gia: Kinh nghiệm của ngân hàng Mizuho Corporate, Ltd và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam

    1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG --------------- TRẦN THỊ HỒNG CẢO QUẢN TRỊ CHI NHÁNH TẠI NGÂN HÀNG ĐA QUỐC GIA – KINH NGHIỆM CỦA NGÂN HÀNG MUZUHO CORPORATE, LTD VÀ BÀI HỌC CHO CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THANH MINH Hà Nội, 2010
    2. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày 07 tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức gia nhập trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Sự kiện này là một mốc son lịch sử đánh dấu quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, bên cạnh tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt, chúng ta tiếp nhận từ các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới không chỉ ở nguồn vốn lớn, khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại mà tiếp nhận cả kinh nghiệm quản trị công ty của họ. Với sự phát triển và hội nhập nền kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam tất yếu sẽ hình thành các tập đoàn kinh tế mang tầm cỡ quốc tế vươn chi nhánh hoạt động tới các nước trong khu vực và thế giới trở thành các công ty, tập đoàn đa quốc gia. Mặt khác, hiện nay Việt Nam đang phải thực hiện lộ trình mở cửa đối với lĩnh vực ngân hàng. Đã có một số ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thành lập tại Việt Nam. Với sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam, nhiều quỹ và công ty tài chính đang tích cực đầu tư vào Việt nam nên sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ngày càng mạnh mẽ. Trong điều kiện như vậy, các Ngân hàng Thương mại Việt Nam muốn tồn tại và hoạt động vững mạnh trên thị trường trong nước cũng như trên trường quốc tế trong tương lai đòi hỏi các ngân hàng không chỉ phải có nguồn vốn lớn, khoa học công nghệ kỹ thuật hiện đại, đội ngũ nhân lực có trình độ cao mà còn là vấn đề hiệu quả quản trị chi nhánh, hiệu quả quản trị toàn hệ thống ngân hàng. Với ý nghĩa và tính cấp thiết về vấn đề quản trị chi nhánh của các ngân hàng, học viên xin được tìm hiểu và nghiên cứu về đề tài: "Quản trị chi nhánh tại ngân hàng đa quốc gia: Kinh nghiệm của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd và bài học cho các Ngân hàng Thương mại Việt Nam" với hy vọng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc nâng cao trình độ quản trị chi nhánh của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Đồng thời, học viên lựa chọn đề tài này để làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Quản trị Kinh doanh tại trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.
    3. 2 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến đề tài về các tập đoàn hay công ty đa quốc gia, đã có một số đề tài đề cập đến nhưng chỉ tập trung vào các vấn đề chuyển giao công nghệ, vốn giữa các chi nhánh của tập đoàn đa quốc gia. Hiện tại chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề tương tự như đề tài luận văn tiến hành nghiên cứu ở trên. Trên cơ sở phân tích và kế thừa các công trình nghiên cứu của những người đi trước, học viên tiến hành nghiên cứu một cách tổng thể về một số mô hình quản trị chi nhánh cơ bản của ngân hàng đa quốc gia trong đó đi sâu nghiên cứu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd từ đó rút ra một số kinh nghiệm trong quản trị chi nhánh có thể áp dụng trong quản trị chi nhánh của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là đi sâu tìm hiểu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd từ đó rút ra một số bài học giúp nâng cao năng lực quản trị chi nhánh của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản về quản trị chi nhánh của các ngân hàng đa quốc gia. - Tìm hiểu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng đa quốc gia Mizuho Corporate Bank, Ltd. - Rút ra bài học kinh nghiệm giúp các Ngân hàng Thương mại Việt Nam quản trị chi nhánh một cách hiệu quả. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd và các Ngân hàng Thương mại Việt Nam.
    4. 3 - Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến quản trị chi nhánh của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd và của các Ngân hàng Thương mại Việt nam. 6. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phổ biến, đặc biệt là kết hợp phương pháp định lượng và định tính trong nghiên cứu lý luận cũng như trong đánh giá thực tiễn và đề xuất giải pháp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được chia thành ba phần tương ứng với ba chương: Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản trị chi nhánh trong các ngân hàng đa quốc gia. Chương 2: Nghiên cứu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng đa quốc gia Mizuho Corporate Bank, Ltd Chương 3: Một số đề xuất nhằm áp dụng bài học kinh nghiệm trong quản trị chi nhánh của MHCB đối với các Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Trong luận văn còn có nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu và đưa ra các biện pháp ứng dụng hiệu quả vào Ngân hàng Thương mại Việt nam nên đề tài còn cần nhiều đóng góp ý kiến và thảo luận thêm. Học viên rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý Thầy Cô và các bạn thông qua địa chỉ email: [email protected] hoặc số điện thoại: 0912 269 585. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 02 tháng 03 năm 2010.
    5. 4 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ CHI NHÁNH TRONG CÁC NGÂN HÀNG ĐA QUỐC GIA 1.1. Một số vấn đề cơ bản về ngân hàng đa quốc gia 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản Khái niệm về công ty đa quốc gia: Ngân hàng đa quốc gia là một thực thể cụ thể của công ty đa quốc gia nên trước khi tìm hiểu khái niệm cơ bản về ngân hàng đa quốc gia, chúng ta sẽ tìm hiểu thế nào là công ty đa quốc gia. Theo từ điển Wipkipedia: "Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (Multinational Corporation) hoặc MNE (Multinational Enterprises) là công ty sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia" [7, tr. 10]. Nhiều công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia. Công ty đa quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và nền kinh tế của các quốc gia. Chúng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hoá. Thông thường các công ty đa quốc gia thường tạo ra các phiên bản nhỏ của chính nó ở mỗi công ty. Định nghĩa khác về công ty đa quốc gia: Công ty đa quốc gia là doanh nghiệp có hoạt động trên khắp thế giới với thị trường và hoạt động sản xuất ở nước ngoài cộng với triết lý toàn cầu được hợp nhất bao gồm cả các hoạt động ở trong nước và ở nước ngoài. Một công ty đa quốc gia thường sử dụng hầu hết các dạng hoạt động kinh doanh quốc tế như xuất khẩu, hoạt động cấp phép kinh doanh (licence), đầu tư nước ngoài gián tiếp và trực tiếp [4, tr. 15]. Định nghĩa công ty đa quốc gia của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): Một công ty đa quốc gia bao gồm nhiều công ty hay thực thể kinh tế. Những thực thể này có thể thuộc quyền sở hữu cá nhân, thuộc quyền sở hữu nhà nước hay
    6. 5 sở hữu hỗn hợp, được thành lập ở nhiều nước khác nhau và có mối liên kết chặt chẽ. Chúng ảnh hưởng đến hoạt động của nhau và đặc biệt cùng có chung mục đích và nguồn vốn kinh doanh. Trong một công ty đa quốc gia, mức độ tự chủ của các thực thể rất khác nhau, tuỳ thuộc vào bản chất mối liên kết và lĩnh vực hoạt động giữa chúng [11, tr. 8]. Định nghĩa công ty đa quốc gia của Liên Hiệp Quốc năm 1978: “Công ty đa quốc gia là những công ty nắm quyền sở hữu hay kiểm soát hoạt động sản xuất và hệ thống bán hàng tại nhiều nước khác ngoài nước của mình. Đây không chỉ là công ty cổ phần, công ty tư nhân, mà chúng có thể là những công ty dưới hình thức hợp tác xã hay thực thể thuộc quyền sở hữu nhà nước” [6, tr.8]. Qua một số định nghĩa về công ty đa quốc gia nêu trên chúng ta thấy về mặt định lượng, công ty đa quốc gia có phạm vi hoạt động là từ hai nước trở lên; tỷ lệ lợi nhuận thu từ những hoạt động ở nước ngoài thường chiếm tỷ trọng lớn, từ 25% - 30% [7, tr.11]; mức độ thâm nhập thị trường nước ngoài khá vững chắc, đủ chắc chắn để đưa ra các quyết định kinh doanh. Về mặt định tính: công ty đa quốc gia có sự quản lý và hoạt động kinh doanh mang tính quốc tế, triết lý quản trị công ty có thể phân thành "dân tộc" (hướng nội), đa dạng (hướng theo thị trường nước ngoài), khu vực hay vùng (hướng đến khu vực rộng lớn hơn, có thể là toàn cầu). Các công ty đa quốc gia có thể xếp vào ba nhóm lớn theo cấu trúc các phương tiện sản xuất: i) Công ty quốc gia theo chiều ngang: sản xuất các sản phẩm cùng loại hoặc tương tự ở các quốc gia khác nhau; ii) Công ty đa quốc gia theo chiều dọc: có các cơ sở sản xuất ở một số nước nào đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở một số nước khác; iii) Công ty đa quốc gia nhiều chiều: có các cơ sở sản xuất ở các nước khác nhau mà chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc. Khái niệm về ngân hàng đa quốc gia: Trong phần trên chúng ta đã có một số khái niệm cơ bản về công ty đa quốc gia. Trước khi tìm hiểu ngân hàng đa quốc gia, chúng ta sẽ tìm hiểu về khái niệm ngân hàng. Nói chung, ngân hàng theo nghĩa truyền thống là một định chế tài chính cung cấp hai loại dịch vụ chính cho công
    7. 6 chúng là nhận tiền gửi và cho vay trực tiếp đến các doanh nghiệp, cá nhân và các định chế tài chính khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Ở Anh, ngân hàng được coi là một tổ chức bằng hoạt động của mình tiến hành thu nhận vốn dưới hình thức tiền gửi và cấp tín dụng cho các cá nhân và doanh nghiệp. Còn tại Việt Nam: "Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan" [30, (điều 20)] trong đó "Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi cung cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán .". Tuy có nhiều cách diễn giải khác nhau để làm rõ khái niệm về ngân hàng nhằm phân biệt ngân hàng với các định chế tài chính khác nhưng có điểm chung nhất trong các định nghĩa về ngân hàng đó là chỉ có ngân hàng mới thực hiện các khoản cho vay và bán ra những tài khoản thanh toán, ngoài những dịch vụ tài chính giống như các định chế tài chính khác cũng thực hiện. Như vậy, có thể hiểu ngân hàng là một định chế tài chính cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, trong đó nghiệp vụ cơ bản và truyền thống là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và thực hiện dịch vụ thanh toán. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, có loại hình ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình tổ chức ngân hàng khác. Qua những khái niệm về công ty đa quốc gia và ngân hàng đơn thuần ở trên, chúng ta có thể hiểu Ngân hàng đa quốc gia là ngân hàng cung cấp các dịch vụ tài chính có phạm vi hoạt động ở hai hay nhiều nước, có trụ sở hoạt động chính tại một nước và có các chi nhánh hoạt động ở nhiều nước trên thế giới. Như các công ty đa quốc gia hoạt động trong các lĩnh vực khác trên thế giới, ngân hàng đa quốc gia là một thực thể kinh tế gồm nhiều công ty hoặc chi nhánh hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng như tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán . hoặc các ngành khác có liên quan đến hoạt động đầu tư tài chính tại nhiều nước trên thế giới. Mỗi công ty con hoặc chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia hoạt động tại các nước là những pháp nhân độc lập, trong đó có một ngân hàng đóng vai trò làm
    8. 7 nòng cốt là ngân hàng mẹ. Giữa các chi nhánh và ngân hàng mẹ có mối liên kết nhất định về tài chính, về quản lý, thông tin hoặc về vấn đề thương hiệu . để cùng nhau thực hiện một liên kết có quy mô lớn, nhằm đạt được các tôn chỉ, mục đích, sứ mệnh và hiệu quả hoạt động của cả công ty một cách tối đa. Khái niệm về quản trị: Trước khi tìm hiểu về quản trị chi nhánh trong các ngân hàng đa quốc gia, chúng ta tìm hiểu về khái niệm quản trị chung trong công ty và quản trị chi nhánh. Có nhiều khái niệm về quản trị nhưng có thể hiểu quản trị là một quá trình tổng thể về bố trí, sắp xếp nhân lực và tài nguyên một cách hiệu quả hướng đến các mục tiêu nhất định của một tổ chức. Liên quan đến vấn đề quản trị trong công ty, có hai khái niệm là quản trị công ty (QTCT) và quản trị kinh doanh (QTKD). Nhiều người cho rằng quản trị chính là QTKD hoặc cũng chính là QTCT. Thực ra hai khái niệm này không giống nhau. QTKD là điều hành quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do Ban Giám đốc thực hiện. Còn QTCT, theo từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia [35], là một hệ thống các thiết chế, chính sách, luật lệ nhằm định hướng, vận hành và kiểm soát công ty. QTCT cũng bao hàm mối quan hệ giữa nhiều bên, không chỉ nội bộ công ty mà còn những bên có lợi ích liên quan bên ngoài công ty như các cơ quan quản lý Nhà nước, các đối tác kinh doanh và cả môi trường, cộng đồng và xã hội. Có thể hiểu QTCT là một quá trình giám sát và kiểm soát để đảm bảo hoạt động quản trị kinh doanh phù hợp với lợi ích của các cổ đông. QTCT ở nghĩa rộng còn hướng đến đảm bảo quyền lợi của những người liên quan không chỉ là cổ đông mà còn bao gồm các nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, môi trường và các cơ quan nhà nước. QTCT được đặt trên cơ sở của sự tách biệt giữa quản lý và sở hữu doanh nghiệp. Chủ sở hữu công ty là nhà đầu tư hoặc các cổ đông . nhưng để công ty tồn tại và phát triển phải có sự điều hành của Hội đồng Quản trị (HĐQT), Ban giám đốc và những đóng góp của người lao động mà những người này không phải lúc nào cũng có chung ý chí và quyền lợi. Rõ ràng cần phải có một cơ chế quản lý, điều hành và kiểm soát để nhà đầu tư, cổ đông có thể kiểm soát việc điều hành công ty nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Điểm mấu chốt
    9. 8 nhất của QTCT là phải có được HĐQT có đủ tầm để chỉ đạo và kiểm soát công ty. Theo thông lệ quốc tế, HĐQT là một cơ quan có quyền lực cao nhất của doanh nghiệp, nơi vạch ra những chiến lược và giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. QTCT tốt sẽ có tác dụng làm cho các quyết định và hành động của Ban Giám đốc thể hiện đúng ý chí và đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư, cổ đông và những người có lợi ích liên quan. Nói gọn lại, QTCT là mô hình cân bằng và kiềm chế quyền lực giữa các bên liên quan của công ty, hướng tới sự phát triển dài hạn của công ty. Quản trị chi nhánh: Chúng ta đã có một số khái niệm về vấn đề quản trị trong công ty. Quản trị chi nhánh là hoạt động quản lý của công ty mẹ hoặc hội sở chính với chi nhánh, đảm bảo sự phát triển bền vững cho các chi nhánh cũng như của toàn bộ công ty. Để hiểu hơn về hoạt động quản trị chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia, chúng ta tìm hiểu một số đặc điểm chung trong việc quản trị chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia như sau: Thứ nhất, đó là quyền sở hữu tập trung: ngân hàng con hay các chi nhánh trên khắp thế giới đều thuộc quyền sở hữu tập trung của ngân hàng mẹ, mặc dù chúng có những hoạt động cụ thể hàng ngày không hẳn hoàn toàn giống nhau và giống ngân hàng mẹ, các chi nhánh được phép cung cấp các dịch vụ cụ thể tại các nước tùy thuộc vào luật pháp các nước quy định Thứ hai, các nhà lãnh đạo ngân hàng đa quốc gia thường xuyên theo đuổi những chiến lược quản trị, điều hành và kinh doanh có tính toàn cầu. Tuy nhiên, mỗi ngân hàng đa quốc gia có thể có nhiều chiến lược và kỹ thuật hoạt động đặc trưng để phù hợp với từng địa phương nơi có chi nhánh, trụ sở hoạt động. Thứ ba, về quản trị tài chính quốc tế hoặc các hoạt động quản trị khác trong các ngân hàng con, chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia hoạt động tại các nước trên thế giới cũng có nhiều khác biệt so với ngân hàng mẹ và các chi nhánh ngân hàng hoạt động đơn thuần trên thị trường nội địa như sự khác biệt về hệ thống tiền
    10. 9 tệ, khác biệt về cơ sở hạch toán lợi nhuận, các quy định chính sách pháp luật, văn hóa, chính trị . Như vậy, quản trị chi nhánh tại các ngân hàng đa quốc gia là hoạt động quản trị của ngân hàng mẹ có trụ sở tại một nước với các ngân hàng con hay chi nhánh ngân hàng hoạt động tại nước của ngân hàng mẹ và tại các nước khác trên thế giới, thông qua các quy định, chính sách, kế hoạch thực hiện và các hoạt động kiểm soát của ngân hàng mẹ với các ngân hàng con hoặc chi nhánh nhằm đảm bảo các ngân hàng con hoặc chi nhánh hoạt động theo các mục tiêu, định hướng phát triển chung của ngân hàng mẹ. Đồng thời đảm bảo các ngân hàng con hoặc chi nhánh ngân hàng hoạt động đạt hiệu quả nhất dưới tác động của môi trường vĩ mô quốc tế và môi trường ngành quốc tế. 1.1.2. Một số đặc điểm của ngân hàng đa quốc gia Trong môi trường hoạt động trên phạm vi toàn thế giới, các ngân hàng đa quốc gia luôn phải chú ý tới những sự khác biệt cơ bản trong quá trình hoạt động. Những sự khác biệt cơ bản đó là: Thứ nhất, đó là sự khác biệt về hệ thống tiền tệ: vấn đề mà các ngân hàng đa quốc gia rất chú trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh và hoạt động quản trị chi nhánh trên phạm vi toàn cầu là vấn đề quản lý tài chính giữa các chi nhánh trên toàn thế giới và vấn đề hợp nhất tài chính giữa các chi nhánh với công ty mẹ. Do môi trường hoạt động kinh doanh giữa các chi nhánh và Hội sở chính là khác nhau, các chi nhánh sử dụng các loại tiền tệ khác nhau, áp dụng các hệ thống kế toán khác nhau . Trong vấn đề quản lý tài chính, các chi nhánh hoạt động tại các nước ghi nhận các dòng lưu thông tiền tệ luân chuyển vào và ra thông qua các hệ thống hạch toán kế toán theo quy định cụ thể tại nước sở tại nơi có chi nhánh hoạt động. Các nghiệp vụ tài chính phát sinh do đó phải hạch toán bằng hệ thống kế toán tại nước sở tại và tính toán trên tiền bản xứ sau đó qui đổi ra đơn vị tiền tệ thống nhất của ngân hàng mẹ (đơn vị tiền tệ thống nhất thường là ngoại tệ mạnh hoặc là loại tiền Hội sở chính sử dụng). Như vậy, khi phân tích tình hình tài chính của ngân hàng đa
    11. 10 quốc gia cần chú ý tới các chỉ tiêu phân tích tỷ giá hối đoái hoặc phân tích ảnh hưởng của biến động giá trị tiền tệ hay cơ chế kế toán . Thứ hai, đó là về thể chế chính trị và kinh tế: Mỗi quốc gia có khuôn mẫu và đặc thù kinh tế và chính trị riêng. Sự khác biệt này là một vấn đề rất quan trọng trong các đối sách của ngân hàng đa quốc gia trong việc điều hành và quản lý các ngân hàng con và các chi nhánh trên qui mô toàn thế giới. Thứ ba là sự khác biệt về ngôn ngữ: Khả năng giao tiếp là yêu cầu hàng đầu trong mọi giao dịch kinh doanh, trong đó ngôn ngữ đóng vai trò trọng yếu. Vì vậy các ngân hàng đa quốc gia muốn bành trướng việc kinh doanh của mình ra khỏi biên giới quốc gia thì vấn đề hàng đầu cần quan tâm đó là khả năng ngoại ngữ của nước sở tại. Thứ tư là sự khác biệt về văn hoá: Mỗi nước có bản sắc văn hoá riêng và ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động kinh doanh trong xã hội. Chính vì vậy, các ngân hàng đa quốc gia muốn mở rộng hoạt động kinh doanh, mở thêm chi nhánh hoạt động hay thực hiện các mục tiêu kinh doanh ở nước ngoài cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Từ những khác biệt trong môi trường kinh doanh quốc tế trên chúng ta thấy ngân hàng đa quốc gia có một số đặc điểm sau: Trước hết về mặt xuất xứ, các ngân hàng đa quốc gia là sản phẩm của sự liên minh giữa những nhà tư bản có thế lực nhất. Đặc trưng này phân biệt các ngân hàng đa quốc gia trong thời đại tư bản tài chính, tức là các ngân hàng đa quốc gia hiện đại, với các ngân hàng hoạt động trên phạm vi quốc tế ra đời trong thời kỳ tư bản tự do cạnh tranh và ngay cả thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản. Trong thời đại ngày nay, khi quốc tế hoá sản xuất được đẩy mạnh, các công ty của những quốc gia đang phát triển, nhất là những công ty thuộc nhóm các nước công nghiệp mới, mở rộng thị trường cạnh tranh quốc tế và với sự giúp đỡ của nhà nước thì chúng có thể vươn ra hoạt động trên phạm vi quốc tế, thậm chí thiết lập những chi
    12. 11 nhánh ở ngay tại các nước tư bản phát triển. Chính vì vậy, các ngân hàng đa quốc gia cũng phát triển mạng lưới hoạt động ra phạm vi toàn cầu một cách nhanh chóng. Đặc điểm thứ hai của ngân hàng đa quốc gia là những ngân hàng có tầm cỡ quốc tế, hoạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế. Các ngân hàng này thiết lập hệ thống chi nhánh ở nước ngoài với mục đích nâng cao tỷ suất lợi nhuận thông qua việc bành chướng quốc tế. Chúng thực hiện việc phân công lao động quốc tế và phân chia thị trường thế giới giữa các công ty tư bản nói riêng và các cường quốc công nghiệp nói chung. Đặc điểm thứ ba của các ngân hàng đa quốc gia là ngân hàng mẹ hay gọi là Hội sở chính và các chi nhánh có mối liên kết đặc biệt. Ngân hàng đa quốc gia luôn có cơ cấu tổ chức gồm hai bộ phận cơ bản: Ngân hàng mẹ hay Hội sở chính và các chi nhánh. Hội sở chính thường có trụ sở đặt tại nước mà ngân hàng đó mang quốc tịch. Giữa Hội sở chính và các chi nhánh có mối quan hệ tương trợ, trong đó Hội sở chính giữ vai trò quản lý chung, các chi nhánh là những đơn vị hạch toán độc lập nhưng tuân thủ các điều lệ, quy định và chính sách phát triển chung của Hội sở, tất cả hợp thành một chỉnh thể thống nhất. Tuy nhiên, mối liên kết này là một chỉnh thể nhưng lại chứa đựng điểm mâu thuẫn. Trong vòng xoáy hoạt động của chúng có cả những lực hướng tâm và ly tâm. Các lực hướng tâm liên kết các ngân hàng con, công ty con, các chi nhánh thành một tổ hợp kinh tế quốc tế thống nhất thông qua nhiều mối dây liên hệ, mốc nối và phụ thuộc nhau ở các mức độ nhất định. Các lực ly tâm buộc các công ty con, ngân hàng con, các chi nhánh phải tự xây dựng và hoạch định các chiến lược kinh doanh nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh tại mỗi nước trên thế giới, hoạt động độc lập với Hội sở chính. 1.1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản trị chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia Từ một số đặc điểm của ngân hàng đa quốc gia trong phần 1.1.2, chúng ta nhận thấy một số yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động quản trị và các quyết định quản trị chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia.
    13. 12 Thứ nhất là môi trường hoạt động của Ngân hàng, của Hội sở chính và các chi nhánh. Môi trường hoạt động của ngân hàng gồm có các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô và môi trường ngành. Môi trường vĩ mô gồm có môi trường kinh tế, môi trường chính trị, môi trường pháp luật, môi trường công nghệ, môi trường văn hoá xã hội. Môi trường ngành gồm có các đối thủ cạnh tranh, khách hàng, các sản phẩm mới thay thế và các đối thủ tiềm ẩn. Đối với các ngân hàng đa quốc gia thì bên cạnh môi trường vĩ mô và môi trường ngành của nước đặt Hội sở chính thì còn chịu ảnh hưởng của môi trường vĩ mô và môi trường ngành của các nước có chi nhánh hoạt động, có thể hiểu là môi trường vĩ mô và môi trường ngành quốc tế. Trong môi trường hoạt động kinh doanh với phạm vi quốc tế và chịu sự điều chỉnh của các luật quốc gia, các điều ước quốc tế, vấn đề quản trị của ngân hàng đa quốc gia là vấn đề hết sức quan trọng. Do đó, các ngân hàng đa quốc gia, với đặc thù là trung gian tài chính thực hiện chức năng kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt là tiền tệ, có chi nhánh hoạt động trên khắp thế giới thì vấn đề quản trị chi nhánh đảm bảo thực hiện được các mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng càng trở nên quan trọng. Thứ hai là về mặt quản lý. Nét nổi bật trong vấn đề quản lý của ngân hàng đa quốc gia là vấn đề kiểm soát của ngân hàng mẹ đối với các công ty con, ngân hàng con hoặc các chi nhánh theo phong cách riêng, bằng cách sử dụng các đòn bẩy kinh tế, thực hiện việc tập trung hoá có mức độ và kiểm soát chủ yếu theo hệ thống dọc từ trung tâm đến ngoại vi. Theo cách quản lý đó, vai trò định hướng phát triển chiến lược về tài chính, kỹ thuật, thông tin, tín dụng của ngân hàng mẹ rất quan trọng, còn các công ty con, ngân hàng con và các chi nhánh là những đơn vị kinh doanh hoạt động mang tính độc lập tương đối và trở thành những đơn vị hạch toán độc lập. Do đó buộc chúng phải năng động, xây dựng các điều kiện và môi trường thích hợp để phát huy tính năng động.
    14. 13 1.2. Một số nguyên tắc cơ bản trong quản trị chi nhánh của các ngân hàng đa quốc gia Quản trị chiến lược có vai trò hết sức quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp kinh doanh nào. Ngân hàng Thương mại cũng là một loại hình doanh nghiệp do vậy quản trị chiến lược Ngân hàng Thương mại cũng phải tuân theo các nội dung cơ bản của quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt, có những đặc điểm và đặc trưng riêng nên quản trị Ngân hàng Thương mại có những nguyên tắc quản trị riêng. Đồng thời, nguyên tắc quản trị chi nhánh trong ngân hàng đa quốc gia là trường hợp cụ thể của nguyên tắc quản trị chi nhánh trong các công ty đa quốc gia hoặc tập đoàn đa quốc gia do đó để tìm hiểu các nguyên tắc quản trị chi nhánh trong ngân hàng đa quốc gia, chúng ta sẽ tìm hiểu các nguyên tắc cơ bản trong quản trị công ty, quản trị chi nhánh của các công ty đa quốc gia, tập đoàn đa quốc gia, từ đó đưa ra các nguyên tắc cơ bản quản trị chi nhánh trong ngân hàng đa quốc gia. Quản trị công ty đòi hỏi có những nguyên tắc nhất định thì việc quản trị chi nhánh càng đòi hỏi phải có những nguyên tắc chặt chẽ và đầy đủ hơn. Nguyên tắc quản trị chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia cũng chính là các nguyên tắc quản lý chi nhánh của một ngân hàng thương mại trong phạm vi một nước hoặc cũng chính là các nguyên tắc quản lý các công ty con trong một tập đoàn tài chính. Tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại, phát triển, liên kết hoặc tích hợp các tập đoàn trong lịch sử phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới, có thể nhận thấy ở mỗi nước tuỳ theo đặc thù kinh tế của mình đều có những mô hình và nguyên tắc quản trị riêng và khác biệt. Nhưng cũng có thể rút ra được một số nguyên tắc chung và mang tính quyết định tới sự thành công của các mô hình quản trị này. Thứ nhất, trong quá trình quản trị chi nhánh, phải xác định được quy trình hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng, từ Hội sở tới các chi nhánh, bảo đảm tính thống nhất và chặt chẽ trong tổ chức. Đó có thể là hệ thống quản lý tài chính rành mạch trong trường hợp ngân hàng đa quốc gia có các công ty con, ngân hàng, chi nhánh hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Cũng có thể là Hội sở chính quản
    15. 14 lý mọi hoạt động của các công ty con và các chi nhánh: từ các vấn đề như chiến lược và định hướng phát triển của các chi nhánh cho tới các hoạt động hàng ngày của các chi nhánh. Nói tóm lại, khi quản trị chi nhánh, các ngân hàng đa quốc gia phải xác định được các công ty con, ngân hàng con và các chi nhánh trong hệ thống ngân hàng sẽ được quản lý và liên kết với nhau theo nguyên tắc nào. Thứ hai, đảm bảo tính độc lập và tự chủ trong một thể thống nhất. Với nguyên tắc này, phải bảo đảm đồng thời tính thống nhất về vấn đề độc lập, tự chủ trong hoạch toán và các hoạt động kinh doanh của các chi nhánh, công ty con, ngân hàng con với Hội sở chính. Để làm được điều này đòi hỏi các ngân hàng đa quốc gia phải thiết lập mối quan hệ thị trường rạch ròi giữa các chi nhánh trong ngân hàng, trong vấn đề quản lý tài chính, quản lý vốn đầu tư cũng như vấn đề về quản lý và điều phối cổ phần. Thứ ba, nâng cao sức cạnh tranh của các chi nhánh, công ty con, ngân hàng con để nâng cao sức cạnh tranh của toàn bộ ngân hàng. Một trong những điểm cốt lõi của thị trường và nguồn gốc của sự phát triển là sự cạnh tranh. Dù hoạt động trong lĩnh vực nào, vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của mỗi chi nhánh, công ty con, ngân hàng con và của toàn bộ ngân hàng đa quốc gia có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Do đó, các ngân hàng đa quốc gia luôn chú trọng việc thiết lập cơ chế thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chi nhánh, công ty con, ngân hàng con từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn hệ thống ngân hàng. Ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc hoạt động cơ bản, với đặc thù của ngành ngân hàng là kinh doanh tiền tệ và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến tài chính thì trong quá trình quản trị chi nhánh, các ngân hàng đa quốc gia phải tuân thủ thêm một số nguyên tắc do Uỷ ban Basel về giám sát hoạt động ngân hàng, viết tắt là Basel, quy định. Từ năm 1999, Uỷ ban này đã nỗ lực đưa ra Hiệp ước mới thay thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn của Basel (gọi là Basel II) đã chính thức được ban hành với cách tiếp cận mới dựa trên ba nguyên tắc cơ bản mà các ngân hàng quốc tế khi hoạt động bắt buộc phải tuân theo:
    16. 15 Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng phải duy trì một lượng vốn đủ lớn để trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của toàn bộ ngân hàng, bao gồm cả Hội sở và tất cả các chi nhánh, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp. Theo đó, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng quy định trong Basel II có sự sửa đổi lớn so với quy định trong Basel I và thay đổi nhỏ đối với rủi ro thị trường nhưng hoàn toàn là phiên bản mới trong rủi ro tác nghiệp. Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về các loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng các giám sát viên có thể đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này. Với nguyên tắc này, Basel II nhấn mạnh các vấn đề bắt buộc của công tác rà soát, giám sát trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Các ngân hàng cần phải xây dựng quy trình đánh giá về mức độ đầy đủ vốn của họ theo danh mục rủi ro và thiết lập các chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó. Nguyên tắc thứ ba: các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường. Với nguyên tắc này, Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai và minh bạch thông tin từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này. Ngoài một số nguyên tắc cơ bản của Basel, trong quá trình quản trị chi nhánh mỗi ngân hàng đa quốc gia còn xây dựng những nguyên tắc quản lý đặc thù tuỳ theo mục đích quản trị chiến lược của ngân hàng đó. 1.3. Một số mô hình quản trị chi nhánh cơ bản của ngân hàng đa quốc gia 1.3.1. Định hướng tiếp cận về quản trị chi nhánh trong các ngân hàng đa quốc gia Từ các đặc điểm về ngân hàng đa quốc gia như đã tìm hiểu trong mục 1.1.2, chúng ta sẽ đi tới các hướng tiếp cận về quản trị chi nhánh trong các ngân hàng đa quốc gia. Để hiểu hơn về ngân hàng đa quốc gia, chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về cấu
    17. 16 trúc tổ chức và các loại hình ngân hàng đa quốc gia chủ yếu trên thế giới. Hiện nay trên thế giới, ngân hàng đa quốc gia có các cấu trúc tổ chức chủ yếu sau:  Mô hình ngân hàng đa năng (Universal banking): Mô hình ngân hàng đa năng là mô hình tập đoàn ngân hàng xuất hiện sớm ở Anh và Mỹ. Ở Mỹ, loại hình tập đoàn này là sản phẩm của Đạo luật Glass – Steagall Act năm 1933. Các ngân hàng lớn thường có xu hướng hoạt động như những ngân hàng toàn cầu trong khi một số tổ chức nhỏ hơn lại tập trung vào phát triển thành những ngân hàng thương mại chuyên biệt hoặc ngân hàng đầu tư. Mô hình ngân hàng đa năng cũng là mô hình ngân hàng phổ biến nhất ở Châu Âu. Với mô hình này, các cổ đông của ngân hàng trực tiếp quản lý các hoạt động kinh doanh ngân hàng, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và không có sự phân biệt về quản lý vốn giữa các lĩnh vực. Với cấu trúc tổ chức như vậy cũng gây ra khó khăn trong việc xác định rủi ro của mỗi lĩnh vực. Bên cạnh đó, rủi ro của lĩnh vực này có thể dẫn tới rủi ro sang các lĩnh vực khác. Ở Châu Âu, ngân hàng đa năng có thể hoạt động cả trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bảo hiểm cùng với hoạt động kinh doanh ngân hàng nhưng thực tế không có quốc gia nào cho phép một công ty đơn lẻ thực hiện cả 3 hoạt động kinh doanh trên. Đây là mô hình ít được áp dụng ở các nước đang phát triển và không áp dụng được ở Việt Nam vì Việt Nam chưa đạt được trình độ phát triển cao và đội ngũ quản lý cũng không thể quản lý được một hệ thống như vậy. Như vậy, ngân hàng đa năng là ngân hàng không chỉ đơn thuần hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng mà còn hoạt động trong các lĩnh vực tài chính có liên quan khác như kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm.  Mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn vừa kinh doanh ngân hàng (parent- subsidiary relationship): Với mô hình tổ chức của loại hình ngân hàng này, các công ty tài chính là công ty con của ngân hàng. Các cổ đông của ngân hàng quản lý trực tiếp ngân hàng nhưng không quản lý trực tiếp các công ty bảo hiểm hay công ty chứng khoán, còn các lãnh đạo ngân hàng quản lý trực tiếp hoạt động của công ty
    18. 17 chứng khoán và công ty bảo hiểm. Với mô hình này, vốn của ngân hàng, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm được quản lý một cách độc lập tuy nhiên rủi ro vẫn có thể xảy ra và gây ra rủi ro dây chuyền. Đây là mô hình phổ biến ở các nước như Anh, Canada . Mô hình này có ưu điểm là hoạt động ngân hàng thương mại và hoạt động đầu tư được tách biệt, giúp cho ngân hàng này có thể giảm thiểu rủi ro hơn so với mô hình ngân hàng đa năng. Nguồn vốn được chia cho các công ty con và quản lý một cách độc lập do đó hạn chế được nhiều rủi ro hơn khi nền kinh tế gặp khó khăn hoặc một công ty con gặp vấn đề. Mô hình này có cấu trúc rõ ràng, đơn giản hơn mô hình đa năng và dễ quản lý hơn vì nó được chia thành nhiều mảng hoạt động, các công ty con chịu trách nhiệm đối với từng mảng hoạt động do đó tạo điều kiện cho các cổ đông dễ dàng nắm bắt các hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, mô hình này có nhược điểm là không mang lại sự thuận tiện cho khách hàng và không nắm bắt thông tin nhanh như mô hình ngân hàng đa năng.  Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần tuý (Holding company): Trong mô hình này, ngân hàng mẹ sở hữu cổ phần của các công ty con hoặc các chi nhánh. Ngân hàng mẹ chủ yếu thường chỉ thực hiện hoạt động đầu tư tài chính và chịu trách nhiệm quản lý các chi nhánh hoặc công ty con trên từng lĩnh vực. Mô hình này có ưu điểm là có thể giảm thiểu rủi ro cho các chủ sở hữu, cho phép họ sở hữu và kiểm soát số lượng các chi nhánh khác nhau. Mô hình này là mô hình của một số tập đoàn ngân hàng đa quốc gia như Citigroup, HSBC . Các cổ đông của công ty mẹ không trực tiếp quản lý hoạt động của các công ty con. Do đó, rủi ro của lĩnh vực này không ảnh hưởng đến hoạt động của lĩnh vực khác. Mô hình này rất phổ biến trong các tập đoàn tài chính quốc tế ở Mỹ và Nhật Bản. Như vậy, có ba loại hình ngân hàng đa quốc gia chính đó là ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng đơn ngành, không chịu sự quản lý hay thuộc sở hữu của công ty hay tập đoàn khác. Loại hình ngân hàng thứ hai là ngân hàng thuộc sở hữu và chịu sự quản lý của một tập đoàn hay công ty khác. Loại hình thứ ba là ngân hàng liên kết với các ngân hàng hay công ty khác nhưng hoạt động độc lập với công
    19. 18 ty liên kết. Các chi nhánh của ngân hàng hoạt động tại nhiều nước trên thế giới và chỉ chịu sự quản lý của ngân hàng này. 1.3.2. Một số mô hình quản trị chi nhánh cơ bản của ngân hàng đa quốc gia Qua cách tiếp cận trong phần 1.3.1, chúng ta thấy các ngân hàng, công ty con, chi nhánh trong ngân hàng đa quốc gia có mối quan hệ khác nhau với ngân hàng mẹ nhưng có một điểm chung đó là các ngân hàng con, các chi nhánh trong ngân hàng đa quốc gia luôn nhân danh ngân hàng mẹ để thiết lập các mối quan hệ kinh doanh với các đối tác bên ngoài. Mặt khác, quan hệ giữa các ngân hàng con, công ty con và các chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia với nhau là dựa trên quan hệ kinh tế, quan hệ thị trường. Ngân hàng đa quốc gia thiết lập hệ thống nguyên tắc quản trị thống nhất trong ngân hàng với việc thiết lập tầm nhìn, sứ mệnh, hệ thống giá trị cốt lõi, quy định, quy chế quản trị nội bộ và xây dựng thương hiệu cho toàn bộ ngân hàng. Hệ thống nguyên tắc quản trị này áp dụng thống nhất và ảnh hưởng đến tất cả các chi nhánh thành viên trong ngân hàng. Ví dụ, Tập đoàn Ngân hàng Hồng Kông Thượng Hải sử dụng khẩu hiệu: "Ngân hàng toàn cầu, am hiểu địa phương" tại tất cả các công ty, chi nhánh trên toàn thế giới. Ngân hàng đa quốc gia thiết lập hàng loạt các uỷ ban và hội đồng như hội đồng tài chính, hội đồng kiểm toán, hội đồng chiến lược, hội đồng nhân sự . Trên cơ sở ngân hàng mẹ chủ trì, các uỷ viên của uỷ ban, hội đồng được các chi nhánh trong ngân hàng tham gia theo cơ chế kiêm nhiệm. Theo đó, các hội đồng, uỷ ban này xây dựng các kế hoạch và tổ chức hướng dẫn triển khai kế hoạch cho toàn bộ các chi nhánh trong ngân hàng đa quốc gia. Các ngân hàng đa quốc gia được hình thành theo quy luật của thị trường, đó là sự kết hợp tổng thể các phương thức phát triển, có thể là con đường nội sinh của chính ngân hàng mẹ trên cơ sở thành lập, góp vốn thành lập hàng loạt các chi nhánh trực thuộc ngân hàng mẹ trong và ngoài nước. Giữa ngân hàng mẹ với các chi nhánh ở nước ngoài có mối quan hệ chặt chẽ mặc dù ngân hàng mẹ và các chi nhánh nước ngoài là các thực thể độc lập về mặt pháp lý. Với các hình thức quản lý vốn khác nhau của ngân hàng mẹ đối với các chi nhánh sẽ hình thành nên các mô hình quản trị chi nhánh khác nhau. Trên thế giới, mô hình quản lý ngân hàng đa
    20. 19 quốc gia ở các khu vực và các nước cũng được thiết lập với cấu trúc và hình thức có thể khác nhau nhưng mô hình quản trị chi nhánh thông thường được phân loại theo ba yếu tố: Cơ chế đầu tư vốn, Cơ chế liên kết kinh doanh và cơ chế quản lý. 1. Theo cơ chế đầu tư vốn: Ngân hàng đa quốc gia có thể có lựa chọn một trong các mô hình đầu tư: mô hình đầu tư đơn cấp, mô hình đầu tư đồng cấp, mô hình đầu tư đa cấp, hoặc mô hình đầu tư hỗn hợp (tức là phối hợp nhiều hình thức đầu tư). Trong mô hình đầu tư đơn cấp, ngân hàng mẹ lẫn các chi nhánh đều chỉ đầu tư xuống một cấp trực tiếp, không đầu tư xuống cấp xa hơn. Trong đầu tư đồng cấp, các chi nhánh trong cùng một cấp đầu tư qua lại. Trong mô hình đa cấp, các chi nhánh, đặc biệt là ngân hàng mẹ, vừa đầu tư trực tiếp vào các chi nhánh con, đồng thời cũng đầu tư trực tiếp vào các chi nhánh “cháu”, “chắt” ở dưới, không thông qua chi nhánh trung gian nào. Cuối cùng, mô hình hỗn hợp là mô hình phối hợp nhiều hình thức đầu tư (đơn cấp, đồng cấp, đa cấp) giữa các chi nhánh trong ngân hàng. 2. Theo cơ chế liên kết kinh doanh: Ngân hàng đa quốc gia có thể lựa chọn mô hình quản trị chi nhánh theo các mô hình: liên kết theo chiều dọc, liên kết theo chiều ngang và liên kết hỗn hợp. Liên kết theo chiều dọc là mô hình liên kết các chi nhánh hoạt động trong cùng một chuỗi giá trị ngành. Liên kết theo chiều ngang là sự kết hợp giữa các chi nhánh có các sản phẩm, dịch vụ liên quan với nhau và có thể sử dụng cùng một hệ thống phân phối để gia tăng hiệu quả. Mối liên kết này tạo điều kiện đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, tận dụng hệ thống phân phối để tiết kiệm chi phí, phân tán rủi ro. Liên kết hỗn hợp là sự kết hợp của cả hai dạng liên kết dọc và ngang. 3. Theo cơ chế quản lý: Ngân hàng đa quốc gia quản lý chi nhánh theo các mô hình: quản lý tập trung, quản lý phân tán hoặc quản lý hỗn hợp. Trong mô hình quản lý tập trung, quyền lực được tập trung ở cơ quan đầu não, thường là tại ngân hàng mẹ. Ngân hàng mẹ quản lý tất cả các hoạt động của các chi nhánh. Trong mô hình quản lý phân tán, ngân hàng mẹ chỉ đưa ra định hướng và kiểm soát lại các định hướng đã đặt ra vào cuối quý hoặc cuối năm tài chính và giao quyền tự chủ

     

    Các file đính kèm:

Đang tải...