Tài liệu Kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám

    Lời nói đầu
    Một khung tường xây bằng những viên gạch vỡ cỡ lớn- một loại kiến trúc phổ biến của thời hậu Lê tường để hình chữ nhật, chiều dài hơn 300 mét, chiều rộng 70 mét, chạy dài suốt từ đường Quốc Tử Giám vắt ngang tới đường Nguyễn Thái Học, tự thân nó qua dáng bên ngoài đã đủ gây nên một không khí cổ kính. Bất cứ ai qua đây dù vô tình cũng không thể nào không tìm hiểu xem đây là nơi nào? Di tích của thời đại nào?
    Đó là khu di tích lịch sử Văn Miếu Quốc Tử Giám . Văn Miếu quí giá này được xây dựng năm 1070, dưới triều vua Lý Thánh Tông và được dành để thờ cúng Khổng Tử, song thân phụ mẫu của ông, Tứ phối (bốn học trò xuất sắc nhất là Nhan Hồi, Tử Tư, Tăng Tử và Mạnh Tử), Thập Triết (mười nhà tư tưởng ưu việt nhất) và Thất thập nhị hiền (72 học trò giỏi của ông) và cho Hoàng Thái Tử đến học. Chu Văn An tư nghiệp Quốc Tử Giám sau khi mất (1370) cũng được phối thờ ở Văn Miếu.
    Chúng ta hãy xem thứ tự từ trước đến sau từ ngoài vào trong để từng bước tìm hiểu dấu tích từ nguyên sơ đến hiện đại của khu di tích lịch sử hiếm có này.

    I. TỨ TRỤ
    Ngay bên cạnh quầy bán vé là tứ trụ cho chúng ta biết một đôi điều về học thuyết của Khổng Tử. Xung quanh tứ trụ có các câu đối chữ Hán trong đó có các câu:
    “Cương thường đổng cán tồn thiên địa
    Đạo đức cung tường tự cổ kim”
    (Rường cột cương thường tồn tại cùng trời đất
    Đạo đức trường học có từ xưa tới nay).
    “Đông Tây Nam Bắc do tử đạo
    Công­, khanh, phu sĩ xuất thân từ đường này).
    Trên đỉnh hai trụ giữa xây cao hơn có hình hai con nghê chầu vào, trên đỉnh hai trụ ngoài đắp nổi bốn con chim phượng hoàng (biểu tượng quyền lực của trời, sự phù hộ siêu hình và sự sống chết vĩnh hằng).
    II. VĂN MIẾU MÔN
    Hai tâm bia “Hạ mã” dựng trong hai nhà bia nho nhỏ là mốc ranh giới chiều nang trước mặt. Xưa kia dù công hâu hay khanh, dù võng lọng hay ngựa xe đi vào đều phải xuống kiệu hay ngựa trước khi vào Văn Miếu.
    Một sân đất thênh thang từ bia “Hạ mã” tới tường phía trước của Văn Miếu là khoảng thứ nhất bên ngoài. Sân này bị con đường lát gạch sẻ đôi. Đường thẳng tắp qua cổng giữa rồi nối với những đoạn phía trong, thành một đường trục giữa xuyên suốt khu kiến trúc tạo nên kiểu dáng đối xứng tuyệt đối.
    Văn Miếu môn tức là cổng Tam quan ngoài cùng cổng có ba cửa, cửa giữa cao to và xây 2 tầng. Tầng trên có ba chữ “Văn Miếu môn”. Di tích còn lại ngày này là sản phẩm của thời Nguyễn. Kiểu dáng kiến trúc Văn Miếu Môn có nhiều nét độc đáo. Nhìn bên ngoài tam quan là ba kiến trúc riêng biệt. Cửa chính giữa được xây 2 tầng. Mặt bằng hình vuông. Tầng dưới to, tầng trên nhỏ chồng lên giữa tầng dưới, do đó xung quanh thừa ra môt hàng hiên rộng, 4 mặt có lan can. Phía bên ngoài tầng dưới chỉ mở một cửa cuốn, hai cánh bằng gỗ và mi cửa hình bán nguyệt cũng bằng gỗ chạm nổi hình đôi rồng chầu mặt nguyệt. Phía bên trong lại mở ra 3 cửa cuốn không cánh. Tầng trên làm 8 mái, 4 mái hiên, 4 mái nóc. Mái tầng trên làm cong lên ở 4 góc.
    Tả môn và hữu môn hai bên nhỏ hơn, thấp hơn cũng xây kiểu 4 mái hiên và 4 mái nóc. Hai cửa này ngày xưa là nơi đóng mở ra hàng ngày, còn cửa chính thì quanh năm cửa đóng then cài chỉ mở ra vào những dịp quan trọng như vua chúa tới thăm, ngày tế lễ
    III. ĐẠI TRUNG MÔN
    Từ cổng chính Văn Miếu môn, theo đường lát gạch đi thẳng đến cổng thứ hai là Đại Trung Môn. Ngang hàng với Đại Trung Môn, bên trái có Thánh Đức môn, bên phải có Đạt tài môn. Bức tường ngang nối 3 cửa vươn dài ra hai bên tới tận tường vây dọc bên ngoài. Hai bên tả hữu của cả khu Văn Miếu, cùng với tường ngang nơi Văn Miếu môn tạo thành một khung hình móng có tường xây khép kín ra vào bằng Văn Miếu môn, Tả môn và Hữu môn ở phía trước và bằng Đại Trung môn. Thành Đức môn vàĐạt Tài môn ở phía sau.
    Trong khu vực này chỉ trồng cây to bóng mát phủ kín khắp mặt bằng. Hai chiếc hồ hình chữ nhật nhỏ nằm sát theo chiều dọc của đường vây dọc bên ngoài.
    Con đường lát gạch từ Văn Miếu môn tới Đại Trung môn lại vườn tiếp thẳng tới Khuê Văn Các. Từ hai cửa Đạt Tài và Thành Đức ở hai bên cửa Đại Trung, hai con đường lát gạch nhỏ hơn chạy song song với trục giữa, chia khu vực thứ hai này thành 4 dải khá cân bằng. Hai hồ nước hình chữ nhật được đào ở vị trí tương tự như hai hồ nước ở khu vực thứ nhất. Ở đây cũng là những bãi cỏ trồng ít cây cổ thụ đã rất cao tuổi.
    Việc lắp lại một khu vực chỉ có cây cỏ lại làm thêm dãy tường ngăn và một lớp cửa ra vào như thế làm tôn thêm vè thâm nghiêm, tĩnh mịch của Văn Miếu.
    IV. KHUÊ VĂN CÁC
    Đây là công trình có giá trị thẩm mĩ cao, được xây dựng năm 1805 ở vị trí trung tâm của Văn Miếu, là biểu tượng về lịch sử- văn hoá của Thủ đô Hà Nội.
    Góc Khuê Văn là một loài vuông 8 mái, dựng trên một nền vuông cao lát gạch Bát Tràng. Tầng dưới là 4 trụ gạch, tầng trên là kiến trúc gỗ từ mái lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc bằng chất liệu đất nung hoặc vôi cát.
    Sàn gỗ có chừa hai khoảng trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn có diềm trạm trổ tinh vi, lan can con tiện cũng làm bằng gỗ. Bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều làm bằng một cửa tròn có những thanh gỗ chống toả ra bốn phía. Cửa và những thanh gỗ chốgn tượng trưng cho sao Khue và những tia sáng của sao. Mỗi mặt tường gỗ đều chạm một đôi câu đối chữ Hán thếp vàng.
    Cửa Bi văn kết thúc con đường lát gạch nhỏ chạy từ cửa Thành Đức bên trái. Bi văn có nghĩa là trang sức nên vẻ đẹp, ý nói văn chương trau chuốt sáng sủa, có sức truyền cảm thuyết phục con người.
    Cửa súc văn kết thúc con đường lát gạch nhỏ chạy từ cửa Đại Tài bên phải. Súc văn có nghĩa là văn chương hàm súc phong phú, có khả năng nuôi dưỡng vẻ đẹp tâm hồn.
    Hai cửa này cùng với gác Khuê Văn mở đầu cho khu vực thứ ba, khu vực giếng Thiêng Quang và vướn bia tiến sĩ.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...