Luận Văn Kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của người mông ở huyện bắc mê tỉnh hà giang

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI: Kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của người mông ở huyện bắc mê tỉnh hà giang​
    Information
    MỞ ĐẦU



    1. Lý do chọn đề tài

    Bắc Mê là một huyện miền núi nghèo thuộc tỉnh Hà Giang có đông dân tộc Mông. Đây là một tộc người có nền văn hoá phong phú, đa dạng và đặc sắc bởi kho tàng tri thức dân gian. Trong đó có hệ thống tri thức về sản xuất nông nghiệp. Hệ thống kiến thức này đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi thế hệ người Mông, giúp họ chống đỡ sự khắc nghiệt của thiên nhiên vùng núi cao để tồn tại và trở thành dân tộc có số dân đông nhất ở Hà Giang nói chung và ở Bắc Mê nói riêng.
    Sinh sống chủ yếu trên vùng núi đá, cả cuộc đời được núi đá bao bọc,“sống trên đá, chết nằm trong đá”, nên người Mông Bắc Mê có những hiểu biết sâu sắc về tự nhiên. Trong sản xuất nông nghiệp, từ cách chọn đất canh tác, giống cây trồng, vật nuôi đến chăm sóc, thu hoạch đều phù hợp với điều kiện tự nhiên nơi đây. Sự tồn tại của họ cùng với những ruộng lúa nương ngô trên đỉnh núi đã ghi nhận những nỗ lực và những sáng tạo to lớn của cả cộng đồng trong việc hòa nhập với thiên nhiên.
    Trải qua quá trình lao động sản xuất lâu dài, người Mông Bắc Mê đã tích lũy được những kinh nghiệm dân gian quý báu. Vì vậy, việc nghiên cứu và bảo tồn nó rất cần thiết và hữu ích cho các nhà khoa học trong việc nhận thức đúng đắn hơn về những nguyên tắc, thói quen trong sản xuất để kết hợp với kiến thức khoa học một cách có hiệu quả.
    Từ những nhận thức trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài ''Kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của người Mông ở huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang" với mong muốn tìm hiểu về văn hóa Mông ở quê hương mình và bước đầu tìm ra những ưu điểm cũng như hạn chế trong sản xuất nông nghiệp để giúp người Mông nơi đây vươn lên xóa đói giảm nghèo.

    2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

    Nghiên cứu về người Mông cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, trong quá trình làm luận văn tác giả đã tiếp cận các công trình sau:
    Công trình Lịch sử người Mèo do F.Savina viết năm 1924 (Trương Thị Thọ và Đỗ Trọng Quang dịch), đã cho thấy những nét cơ bản về đời sống kinh tế, văn hóa của người Mông trong quá trình sinh sống và chống lại các thế lực bành trướng Trung Hoa trong lịch sử.
    Công trình ''Các dân tộc ít người ở Việt Nam", xuất bản năm 1978, của Viện Dân tộc học đã trình bày khái quát về văn hóa các dân tộc ít người trong đó dân tộc Mông ở Hà Giang được đề cập tới như một điển hình cho dân tộc Mông nói chung trên cả nước .
    Công trình ''Dân tộc Mông ở Việt Nam" của tác giả Cư Hoa Vần - Hoàng Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, năm 1994, đã cho thấy một cách tổng thể về dân tộc Mông ở Việt Nam từ nguồn gốc lịch sử cho tới tên gọi, đời sống kinh tế, vật chất, sinh hoạt tinh thần, quan hệ xã hội.
    Văn hóa người Mông ở địa bàn tác giả nghiên cứu đã được đề cập khá đầy đủ chi tiết trong các công trình ''Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang", Hùng Đình Quý, Nxb Sở văn hóa - Thông tin Hà Giang, năm 1994; ''Văn hóa dân tộc Mông Hà Giang" của tác giả Trường Lưu và Hùng Đình, Sở văn hóa - Thông tin - Thể thao Hà Giang xuất bản năm 1996. Hai công trình này đã trình bày khá rõ nét đời sống văn hóa của người Mông trên địa bàn Hà Giang.
    Khóa luận tốt nghiệp: ''Công cụ lao động truyền thống trong tập quán canh tác của người Mông huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang'' của Trần Thạch Hằng - sinh viên khoa lịch sử trường Đại học sư phạm Thái Nguyên, năm (2005) đã cung cấp những tư liệu thực tế về tập quán canh tác cũng như việc sử dụng công cụ nói riêng của người Mông ở huyện Mèo Vạc. Mặc dù công trình trên chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu loại hình công cụ đối với việc hìnhthành tập quán canh tác, nhưng luận văn giúp cho tác giả trong việc tìm thấy những nét tương đồng trong tập quán canh tác của đồng bào Mông ở huyện Bắc Mê nói riêng và ở Hà Giang nói chung.
    Công trình “Văn hoá tâm linh của người Hmông ở Việt Nam truyền thống và hiện tại” (2005) do Vương Duy Quang viết được Nxb Văn hoá Thông tin và Viện Văn hoá xuất bản đã giới thiệu khái quát lịch sử di cư, địa vực cư trú và tộc danh của người Mông ở Việt Nam. Tác giả cuốn sách cũng đã đề cập những nét chung về đời sống kinh tế và đời sống xã hội của người Mông nói chung.
    Công trình “Miêu tộc giản chí hợp biên”(quyển thượng)(2007), Trần Hữu Tiệp dịch, đã cung cấp cho tác giả nhưng cứ liệu quan trọng về nguồn gốc lịch sử, địa bàn cư trú, đời sống kinh tế, văn hoá chính trị của người Mông trong lịch sử trước khi di cư vào Việt Nam.
    Công trình ''Các dân tộc ở Hà Giang'' do Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang xuất bản tại Nxb Thế giới, năm 2008, đã phác thảo những nét khái quát về đời sống vật chất, như tinh thần của người Mông ở địa phương Hà Gianng trong tính đa dạng của nhiều dân tộc khác.
    Công trình“Một số tài liệu sưu tầm về người HMông ở Việt Nam” do Phạm Quang Linh, Hoàng Phương Mai thực hiện được Viện Dân tộc học xuất bản năm 2008, đã cơ bản giới thiệu những kinh nghiệm sử dụng đất nông nghiệp của người Hmông và hiện trạng sử dụng đất nương rẫy của nhóm Hmông trắng ở làng Mô Cổng, xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Là nguồn tư liệu quý giá giúp tác giả có cái nhìn tương quan so sánh với những kiến thức bản địa của người Mông ở Bắc Mê.
    Các công trình trên đây đã cung cấp cho tác giả những hiếu biết cơ bản về người Mông và nền văn hóa của họ. Đồng thời gợi mở cho tác giả việcnghiên cứu về những kiến thức bản địa của người Mông ở một địa phương cụ thể là huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang.
    3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.

    3.1 Đối tượng

    Sống trên vùng núi cao, cư trú và canh tác chủ yếu trên núi đá, đòi hỏi người Mông phải có một hệ thống kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống này trong sản xuất nông nghiệp của người Mông ở Bắc Mê.
    3.2 Mục đích

    Bắc Mê là một huyện miền núi nghèo, có nhiều dân tộc anh em sinh sống. Trong đó người Mông chiếm một thành phần đông đảo trong tổng số dân cư ở đây. Việc nghiên cứu những kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp không những bảo tồn nền văn hóa đặc sắc của đồng bào Mông mà còn giúp cho nhà khoa học hợp tác với đồng bào ở đây trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, vươn lên xóa đói giảm nghèo.
    3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu

    - Khái quát về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và về người Mông ở Bắc Mê

    - Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm về kiến thức bản địa và vai trò của kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp, đề tài làm rõ hệ thống kiến thức bản địa về cách chọn đất trồng, giống cây, vật nuôi, lịch nông vụ, cách lựa chọn công cụ thích hợp, thu hoạch, bảo quản và sản xuất hàng hóa của ngườ i Mông ở Bắc Mê.
    - Tìm hiểu những yếu tố nội sinh và ngoại sinh làm biến đổi kiến thức bản địa và đánh giá tính tích cực của những kinh nghiệm dân gian trong sản xuất của người Mông ở Hà Giang. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tính tích cực của kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của người Mông ở Bắc Mê.


    3.4. Phạm vi nghiên cứu

    - Về không gian: Ở huyện Bắc Mê người Mông chủ yếu cư trú tại các xã Phiêng Luông,Thượng Tân, Minh Sơn, Yên Cường. Đề tài tập trung nghiên cứu ở địa bàn các xã này, đặc biệt chú ý tới các thôn bản có tỷ lệ người Mông lớn hơn so với các dân tộc khác ở địa bàn.
    - Về thời gian: Đề tài nghiên cứu tính bản địa trong sản xuất nông nghiệp

    của người Mông ở huyện Bắc Mê trong truyền thống và hiện tại.

    4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

    - Tài liệu thành văn: Các công trình nghiên cứu về lịch sử, lịch sử Đảng bộ, văn hóa tộc người của tỉnh Hà Giang nói chung và Bắc Mê nói riêng.
    - Tài liệu điền dã dân tộc học: Thông qua việc đi vào điều tra xã hội học, quan sát, phỏng vấn đồng bào người Mông sinh sống như ở các thôn bản thuộc các xã Yên Cường, Thượng Tân, Minh Sơn, Phiêng Luông để thu thập các tài liệu chân thực giúp ích cho quá trình hoàn thành luận văn.
    Dựa vào nguồn tài liệu trên tác giả sử dụng phương pháp:

    - Phương pháp lịch sử và phương pháp logic nhằm tìm hiểu hoàn cảnh nảy sinh kinh nghiệm, những diễn biến và phát triển kinh nghiệm trong sản xuất trên cơ sở đó loại trừ những kinh nghiệm mang tính chất gia đình để tìm ra những kinh nghiệm chung trong sản xuất nông nghiệp của người Mông sinh sống trong địa bàn huyện Bắc Mê.
    - Phương pháp điền dã dân tộc học: Phương pháp này thực hiện các công việc như quan sát, phỏng vấn, ghi chép, chụp ảnh, khai thác các nguồn tư liệu thống kê lập phiếu điều tra . giúp cho tác giả có số liệu chân thực nhất phục vụ cho đề tài.
    Ngoài các phương pháp trên tác giả còn sử dụng các phương pháp như phân tích, so sánh, tổng hợp.


    5. Đóng góp của đề tài

    Trên cơ sở nghiên cứu về kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp từ trong truyền thống và hiện tại, đề tài tìm hiểu những nét đặc trưng trong sản xuất nông nghiệp của người Mông ở Bắc Mê.
    Đề tài thực hiện thành công có thể giúp ích cho việc cộng tác giữa các cán bộ khuyến nông và các nhà khoa học trong việc ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp của người Mông ở huyện Bắc Mê.
    6. Cấu trúc của đề tài

    Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận được xây dựng thành 3 chương. Chương 1: Khái quát về huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang
    Chương 2: Kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của ngườiMông ở huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang trong truyền thống

    Chương 3: Những biến đổi của kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của người Mông ở Bắc Mê tỉnh Hà Giang hiện nay
    KẾT LUẬN



    Nghiên cứu về kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của người

    Mông ở Bắc Mê, chúng tôi có một số nhận xét sau:

    1. Bắc Mê là một huyện vùng sâu, vùng xa của tỉnh Hà Giang có địa hình phức tạp, hiểm yếu, nhiều núi cao vực sâu và đồi núi nối tiếp nhau. Về cấu tạo địa chất, có hai dạng địa hình là vùng núi đất, vùng núi đá với độ dốc trên 250. Khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt đó là mùa mưa và mùa khô. Vào mùa khô, lượng nước bốc hơi lớn nên thường gây khô hạn, thiếu nước cho sinh hoạt. Tuy nhiên, Bắc Mê lại có nguồn tài nguyên đất khá phong phú và đa dạng về nhóm, loại đất và được phân bố trên các loại địa hình khác nhau tạo ra những tiểu vùng sinh thái nông, lâm nghiệp thích hợp với nhiều loại cây trồng .
    2. Người Mông cư trú ở Bắc Mê khoảng 200 năm kể từ khi di cư từ Trung Quốc sang. Trong khoảng thời gian đó các nhóm người Mông từ Mèo Vạc, Đồng Văn, Cao Bằng tiếp tục di cư đến tạo nên một cộng đồng người Mông đông đảo ở đây. Người Mông Bắc Mê cư trú chủ yếu ở các xã Thượng Tân, Yên Cường, Minh Sơn, Phiêng Luông, đó là nơi có nhiều núi đá cao, khí hậu khắc nghiệt. Song người Mông ở Bắc Mê vẫn yêu đời, sống hòa mình với tự nhiên. Họ có truyền thống lao động cần cù, tinh thần khắc phục khó khăn và có đời sống văn hóa tinh thần phong phú, đặc sắc.
    3. Dân tộc Mông chiếm 22% trong tổng thành phần dân cư của huyện Bắc Mê, có tập quán canh tác truyền thống trên núi đá cao, nơi xa xôi hẻo lánh và sống du canh du cư. Từ đó, đồng bào Mông ở Bắc Mê đã tích lũy cho mình một hệ thống những kinh nghiệm dân gian trong sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm khác với tộc người khác. Đó là những kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp cách chọn đất, thời vụ, giống cây trồng, vật nuôi, lựa chọn công cụ lao động thích hợp, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản. Kinh nghiệm này rất đáng quý và gây bất ngờ cho nhiều nhà khoa học. Đặc biệt là họ đã chọn được hệ thốngcây trồng công nghiệp ngắn ngày và các loại hoa màu với hệ thống xen canh gối vụ làm giải pháp cho việc tạo chất dinh dưỡng cho đất và chống xói mòn.
    4. Kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của người Mông ở Bắc Mê đang bị biến đổi do nhiều yếu tố tác động: hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước, yếu tố kinh tế thị trường và văn hóa xã hội, sự thay đổi cơ cấu nghề nghiệp. Các yếu tố trên có tác động hai mặt vừa làm cho kiến thức bản địa mất đi đồng thời hình thành những kiến thức mới phù hợp, tiến bộ. Ngoài ra còn các yếu tố khác như do kiến thức bản địa được lưu truyền bằng miệng nên dễ bị biến thành nhiều dị bản. Sự cạn kiệt của tài nguyên thiên nhiên cũng làm cho kiến thức bản địa bị xói mòn nghiêm trọng. Do vậy, muốn bảo tồn và phát huy được kiến thức bản địa, trước tiên phải đề cao và đánh giá đúng kiến thức bản địa, lập ra các tổ chức bảo tồn và nghiên cứu kiến thức bản địa đồng thời giới thiệu rộng rãi trong các cấp quản lý ở địa phương. Trong các dự án phát triển kinh tế cần có sự tư vấn của các nhà nghiên cứu về kiến thức bản địa và công cuộc xóa đói giảm nghèo phải gắn với việc giữ gìn và phát huy kiến thức bản địa. Cần phải coi trọng các lễ hội dân gian và coi đó là một trong những biện pháp quan trọng để giữ gìn và phát huy kiến thức bản địa.
    5. Trong một thời gian dài kiến thức bản địa bị xem là một yếu tố lạc hậu nên trong các dự án phát triển kinh tế nó thường bị coi là nhân tố cản trở sự phát triển kinh tế. Song qua những thất bại của các dự án phát triển kinh tế này, các nhà khoa học đã nhận ra vai trò của kiến thức bản địa trong phát triển kinh tế. Khác với kiến thức khoa học được tạo ra trong phòng thí nghiệm, kiến thức bản địa được hình thành trong quá trình tương tác của nhiều yếu tố như vấn đề dân số, tài nguyên, phong tục, tập quán và được kiểm nghiệm qua thực tiễn nên rất có giá trị, nếu biết cách khai thác và phối hợp hiệu quả giữa kiến thức bản địa và kiến thức khoa học thì chúng ta sẽ tạo ra một hệ thống canh tác tốt hơn bất cứ hệ thống canh tác của các nhà khoa học hay người nông dân riêng lẻ nào khác.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...