Thạc Sĩ Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 26/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận văn thạc sĩ
    Đề tài: Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
    Định dạng file word
    Mục lục
    Phần mở đầu
    Những vấn đề chung về Kiểm toán Nhà nước trong nền
    kinh tế thị trường
    Tổng quan về Kiểm toán Nhà nước
    Đặc điểm và vai trò của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam
    Kinh nghiệm về hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước
    ở một số quốc gia trên thế giới
    Thực trạng hoạt động của Kiểm toán Nhà n ước Việt Nam
    Khái quát về sự hình thành và phát triển của Kiểm toán Nhà
    nước ở nước ta
    Thực trạng 15 năm hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
    Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động của Kiểm toán Nhà
    nước hiện nay
    Quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của Kiểm toán
    Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
    Những quan điểm về nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà nước
    trong nền kinh tế thị trường
    Những giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà
    nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
    Kết luận


    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã xác định rõ mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhằm thực hiện: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Tuy nhiên, quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Nguyên nhân do hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống nhất . Để khắc phục được những tồn tại, yếu kém đó và đạt được mục tiêu đã đề ra, ngoài những yếu tố và định hướng cần thiết khác, vấn đề quan trọng là nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, vai trò quản lý của Nhà nước là yếu tố quan trọng đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
    Để giúp Nhà nước trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế có hiệu quả theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cần phải có những công cụ mạnh để kiểm tra, kiểm soát. Một trong những công cụ đó là Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính công của Nhà nước, góp phần làm trong sạch và minh bạch nền tài chính quốc gia.
    Trong quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, xoá bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trư­ờng định hư­ớng xã hội chủ nghĩa, Kiểm toán Nhà n­ước ra đời là một tất yếu khách quan do nhu cầu quản lý của Nhà nư­ớc đối với việc phát huy hiệu quả các nguồn lực kinh tế đất nư­ớc trong thời kỳ chuyển giao cơ chế, trong đó quản lý tài chính là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà n­ước, cùng với các công cụ quản lý khác, Kiểm toán Nhà nư­ớc kiểm tra, kiểm soát về lĩnh vực tài chính công, góp phần tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ trong việc hoạch định chính sách, đ­ường lối kinh tế của đất nư­ớc, trong việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực về tài sản và công quỹ quốc gia.
    Kiểm toán Nhà nư­ớc Việt Nam ra đời theo Nghị định số 70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ, là cơ quan trực thuộc Chính phủ, đã từng b­ước khẳng định được vai trò, vị trí của mình như­ một công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nư­ớc. Luật Kiểm toán nhà nư­ớc được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Theo đó, Điều 13 quy định: “Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Điều 14 quy định: “Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước” [18,tr.12]. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính công của nhà nước, hoàn toàn độc lập với Quốc hội và Chính phủ, không nằm trong 3 hệ thống quyền lực là lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước. Điều đó, cũng đã khẳng định vai trò của Kiểm toán Nhà n­ước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế là công cụ kiểm tra tài chính công của Nhà nư­ớc nhằm đư­a việc chi tiêu Ngân sách Nhà n­ước và công quỹ quốc gia tiết kiệm và có hiệu quả, ngăn ngừa lãng phí và tiêu cực góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia. Kiểm toán Nhà nước Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động đ­ược 15 năm, so với nhiều cơ quan Kiểm toán Nhà nư­ớc trên thế giới thì vẫn còn rất non trẻ, nhữ­ng thành tựu và kết quả mà Kiểm toán Nhà nư­ớc Việt Nam đạt đư­ợc trong lĩnh vực kiểm tra tài chính công những năm vừa qua là rất đáng ghi nhận. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Kiểm toán Nhà nư­ớc góp phần thiết lập trật tự kỷ cương trong hoạt động thu- chi Ngân sách Nhà nư­ớc, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính và tiết kiệm chi Ngân sách Nhà nư­ớc.
    Như vậy, thông qua hoạt động của mình Kiểm toán Nhà nư­ớc góp phần phát hiện những bất cập và đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị truờng; phát hiện các gian lận tham nhũng, các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế và kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật; góp phần khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị truờng và nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công.
    Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một công trình khoa học nào thực hiện nghiên cứu riêng biệt về vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Để góp phần nâng cao và tăng cường vai trò của Kiểm toán Nhà nước, đồng thời xây dựng Kiểm toán Nhà nước trở thành công cụ kiểm tra tài chính công quan trọng của nhà nước, việc nghiên cứu một cách đầy đủ đề tài "Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam" là hết sức cần thiết.
    2. Tình hình nghiên cứu đề tài
    - Trong nước, hiện nay cũng có một số tác giả nghiên cứu về vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong cải cách hành chính như: CN.Hà Ngọc Son, PGS.TS Nguyễn Đình Hựu và TS.Mai Vinh viết về “Vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong công cuộc cải cách hành chính nhà nước” .
    - Ngoài nước, do đặc điểm kinh tế xã hội và thể chế chính trị của mỗi quốc gia trên thế giới khác nhau nên vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường của các quốc gia cũng không giống nhau; mỗi cơ quan Kiểm toán Nhà nước trên thế giới đều có đặc thù về địa vị pháp lý, chức năng và nhiệm vụ. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu của nước ngoài là kinh nghiệm và bài học quý báu đối với Kiểm toán Nhà nước Việt Nam.
    3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
    3.1. Mục tiêu nghiên cứu
    Đề xuất phương hướng và các giải pháp nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
    3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
    Để thực hiện được mục tiêu trên, Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
    - Làm rõ những vấn đề chung về Kiểm toán Nhà nước, trên cơ sở đó, xác định vị trí, vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
    - Đánh giá thực trạng về hoạt động của Kiểm toán Nhà nước trong công tác kiểm tra, kiểm soát việc quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế.
    - Tìm ra nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    4.1. Đối tượng nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu là hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
    4.2. Phạm vi nghiên cứu
    Nghiên cứu các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, vị trí của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và thực trạng hoạt động của Kiểm toán Nhà nước từ năm 1994 đến nay. Trong đó có tham khảo một số kinh nghiệm của Kiểm toán Nhà nước của một số nước trên thế giới.
    5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
    - Đề tài sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn.
    - Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, lôgíc kết hợp với lịch sử, tổng kết, đánh giá quá trình hình thành, phát triển và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam.
    - Kế thừa một cách có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu trước đây có liên quan và cập nhật những thông tin mới về chủ đề nghiên cứu.
    6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
    - Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống, kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ đóng góp quan trọng trong việc xác định đúng vị trí và vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
    - Góp phần thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam.
    7. Kết cấu của luận văn
    Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết:
    - Chương 1: Những vấn đề chung về Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
    - Chương 2: Thực trạng hoạt động của Kiểm toán nhà nước ở Việt Nam.
    - Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

    Chương 1
    NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
    TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
    1.1. TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
    1.1.1. Các khái niệm cơ bản
    1.1.1.1. KiÓm to¸n
    Kiểm toán có gốc từ Latinh là: "Audit" gắn liền với nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại, xuất hiện vào thế kỷ thứ III trước công nguyên. Auditing có nghĩa là "nghe", do các nhà cầm quyền La Mã tổ chức để kiểm tra độc lập về tình hình tài chính. Hình ảnh của kiểm toán cổ điển là việc kiểm tra về tài sản, phần lớn được thể hiện bằng cách người ghi chép đọc to lên cho một bên độc lập "nghe" rồi chấp nhận. Cho đến những năm 30 của thế kỷ XX, kiểm toán với nghĩa là kiểm tra độc lập và bày tỏ ý kiến mới được phát triển ở các nước Bắc Mỹ và Tây Âu.
    Ngày nay, hoạt động kiểm toán đã vượt khỏi phạm vi của từng địa phương, từng quốc gia và phát triển theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá từ đó hình thành các tổ chức nghề nghiệp kiểm toán quốc tế, các tập đoàn kiểm toán mang tầm quốc tế hoạt động xuyên quốc gia. Một số tập đoàn kiểm toán xuyên quốc gia đứng đầu thế giới như: Coopers Lybrand, Ersnt and Young, Price Water House và Deloitte Touch Tomatsu .
    Mặc dù khái niệm kiểm toán đã xuất hiện khá lâu đời nhưng cho đến nay vẫn còn có những cách hiểu khác nhau, đôi khi chưa có sự đồng nhất: Vương quốc Anh đã đưa ra khái niệm: " Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất kỳ nghĩa vụ pháp định có liên quan"[23, tr.30]; Với khái niệm này, các nhà khoa học ở Anh quan niệm kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và bày tỏ ý kiến về bản khai tài chính của kiểm toán viên theo nghĩa vụ pháp định. Hoa Kỳ lại quan niệm: "Kiểm toán là một quá trình mà qua đó một người độc lập, có nghiệp vụ tập hợp và đánh giá rõ ràng về một thông tin có thể lượng hoá có liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể lượng hoá với những tiêu chuẩn đã được thiết lập" [23, tr.30-31]; các nhà khoa học về kiểm toán Hoa Kỳ cũng khẳng định sự kiểm tra độc lập của kiểm toán viên, tuy nhiên nhấn mạnh hơn đến khía cạnh chuyên môn tức là các kiểm toán viên không chỉ độc lập mà phải “có nghiệp vụ”; khái niệm của Hoa Kỳ cũng nhấn mạnh đến sự phù hợp giữa thông tin với các tiêu chuẩn đã được thiết lập. Còn các nhà kinh tế nước Cộng hoà Pháp lại quan niệm rằng: "Kiểm toán là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là một kiểm toán viên tiến hành để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng tình hình tài chính thực tế không che dấu sự gian lận và chúng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định" [23, tr.31].
    Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International Federation of Accountants –IFAC) thì “ Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”. Trong giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin A.Rens và James K.Loebbecker đã định nghĩa: Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập; Định nghĩa khác nêu: Kiểm toán là thủ pháp xem xét và kiểm tra một cách khách quan về từng khoản mục bao gồm việc thẩm tra những thông tin đặc trưng được xác định bởi kiểm toán viên hoặc thiết lập bởi thực hành chung. Nói tổng quát, mục đích của kiểm toán là trình bày ý kiến hoặc đi đến kết luận về cái được kiểm toán. (Auditing - Theory & Practice của John Dunn, University of Strathclyde, Glasgow nhà xuất bản Prentice Hall).
    Như vậy, các khái niệm trên phản ánh tương đối đầy đủ về các đặc trưng cơ bản của kiểm toán truyền thống đã phát triển lâu đời. Các khái niệm khẳng định rằng: Kiểm toán là sự kiểm tra và bày tỏ ý kiến về bản khai tài chính hoặc các tài khoản của một tổ chức, cơ quan, xí nghiệp; việc kiểm toán được thực hiện bởi kiểm toán viên có chuyên môn nghiệp vụ, độc lập; đánh giá mức độ trung thực, phù hợp của các thông tin so với các tiêu chuẩn đã được thiết lập; các thông tin kiểm toán được trình bày theo một cách thức nhất định. Các khái niệm đó mới chỉ tập trung ở việc kiểm toán các bản khai tài chính, mang tính truyền thống khi kiểm toán được xuất hiện. Ngày nay, khái niệm kiểm toán hết sức rộng mở, phát triển vượt ra ngoài khuôn khổ quan niệm truyền thống. Bằng chứng là kiểm toán ngày nay không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra các bản kê khai tài chính, các tài khoản . mà đã phát triển trên phạm vi rộng lớn. Thông qua hoạt động kiểm toán có thể kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ các quy định của pháp luật; nội quy, quy chế của mọi chủ thể kinh tế cũng như kiểm tra, giám sát vĩ mô tình hình phát triển của nền kinh tế; hiệu lực và hiệu quả quản lý các nguồn lực .
    Ở Việt Nam, khái niệm kiểm toán mới xuất hiện vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, với sự ra đời của các công ty kiểm toán và tư vấn tài chính trực thuộc Bộ Tài chính. Ngày 11/7/1994 cơ quan Kiểm toán Nhà nước được thành lập đã ghi nhận một dấu mốc quan trọng đối với sự phát triển của hệ thống kiểm toán ở Việt Nam. Thuật ngữ kiểm toán đã được nhiều nhà kinh tế học bàn tới, trong đó, nổi bật là các khái niệm kiểm toán sau: theo giáo trình Lý thuyết kiểm toán của Trường Đại học Kinh tế quốc dân quan niệm: " Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực" [23, tr.30]; quan niệm cho rằng kiểm toán không chỉ là bản khai tài chính mà là “ xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động”; đồng thời, khái niệm cũng đề cập đến việc sử dụng phương pháp kiểm toán khi kiểm toán viên thực thi nhiệm vụ. Học viện Tài chính Hà Nội lại nêu khái niệm: ''Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền, có kỹ năng nghiệp vụ, thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được xây dựng'' [29, tr.5]. Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: “Kiểm toán là một quá trình do Kiểm toán viên đủ năng lực và độc lập tiến hành nhằm thu thập bằng chứng về những thông tin có thể định lượng của một tổ chức và đánh giá chúng nhằm thẩm định và báo cáo về mức độ phù hợp giữa những thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập” [30, tr.7].
    Qua việc phân tích các khái niệm kiểm toán, có thể thống nhất với quan niệm kiểm toán của Học viện Tài chính Hà Nội, đây là khái niệm diễn đạt đầy đủ nội dung của hoạt động kiểm toán: Kiểm toán là một quá trình chứ không phải là một hoạt động đơn lẻ; quá trình đó phản ánh hoạt động của các chuyên gia độc lập, có thẩm quyền, có kỹ năng nghiệp vụ; thông qua hoạt động kiểm toán, các chuyên gia có thể thu thập, định lượng, đánh giá các thông tin về chủ thể kinh tế (so với chuẩn mực đã xác định) và có thể kiểm tra, kiểm soát được các hoạt động kinh tế cả ở tầm vi mô và vĩ mô. Quan niệm về kiểm toán như trên rất rộng mở về nội dung đã thoát ly được quan niệm truyền thống về kiểm toán, đó là chỉ kiểm tra các bản kê khai tài chính, các tài khoản mà đã phát triển việc kiểm toán tuân thủ các quy định của pháp luật; nội quy, quy chế của chủ thể kinh tế cũng như kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong việc quản lý các nguồn lực của một tổ chức, đơn vị, xí nghiệp.
    Như vậy, Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền, có kỹ năng nghiệp vụ, thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được xây dựng.
     
Đang tải...