Thạc Sĩ Khuynh hướng phê bình mới trong lý luận phê bình văn học Anh

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI: Khuynh hướng phê bình mới trong lý luận phê bình văn học Anh​
    Information

    MS: LVVH-LLVH017
    SỐ TRANG: 96
    NGÀNH: VĂN HỌC
    CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
    TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
    NĂM: 2010



    Information

    MỞ ĐẦU

    1. Lí do chọn đề tài

    Sự ảnh hưởng của lí luận phê bình văn học phương Tây đối với nền lí
    luận phê bình văn học nước ta là rất rõ rệt. Theo thời gian, đã, đang và sẽ có
    ngày càng nhiều nhà nghiên cứu và nhiều công trình nghiên cứu về nền lí luận
    phê bình văn học phương Tây để làm phong phú thêm cho nền lí luận phê
    bình văn học của nước nhà.
    Phê bình mới là một khuynh hướng văn học đặc biệt nổi bật về chiều
    dài thời gian tồn tại cũng như mức độ sâu rộng của tầm ảnh hưởng của nó đối
    với công cuộc nghiên cứu phê bình văn học, đặc biệt là đối với tác phẩm văn
    học. Chú trọng vào công việc thực hành, phân tích, giải thích văn bản tác
    phẩm văn học, nó là khuynh hướng phê bình văn học duy nhất được giảng
    dạy như một môn học bắt buộc trong các trường cao đẳng và đại học của Mỹ
    suốt những năm tháng thịnh hành của nó.
    Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về Phê bình mới chưa nhiều,
    các công trình nghiên cứu về Phê bình mới ở Anh lại càng hiếm hoi.
    Chính vai trò của Phê bình mới như vừa nêu ở trên, việc chú trọng vào
    thực hành phân tích tác phẩm văn học của nó, cùng nhu cầu tìm hiểu, giao
    lưu, học tập của nền lí luận phê bình văn học nước nhà, đã thôi thúc tôi chọn
    đề tài này:“khuynh hướng phê bình mới trong lí luận phê bình văn học
    Anh”.

    2. Lịch sử vấn đề

    Phê bình mới là một khuynh hướng nổi trội nhất, có ảnh hưởng lớn
    nhất trong lí luận phê bình văn học Anh và Mỹ vào những năm đầu thế kỉ XX,
    từ những năm 1920 đến những năm 1960. Khuynh hướng phê bình này đã có 2
    những ý kiến khen - chê, những công trình nghiên cứu ca ngợi hay phê phán,
    chỉ trích khác nhau trên thế giới. Mặc dù vậy, khuynh hướng này có ảnh
    hưởng lớn trong giới học thuật Mỹ đến nỗi cách tiếp cận này đã trở thành tiêu
    chuẩn trong trường cao đẳng và đại học ở Mỹ và trở thành chương trình giảng
    dạy ở phổ thông trung học của Mỹ suốt những năm 1960, 1970.
    Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về khuynh hướng phê bình
    này chưa nhiều, có thể kể đến những công trình tiêu biểu sau: các cuốn sách
    “150 từ điển thuật ngữ văn học” (1999) của Lại Nguyên Ân, “Lí luận phê
    bình văn học phương Tây thế kỉ XX” (2001) của Phương Lựu, “Sự đỏng đảnh
    của phương pháp” của Đỗ Lai Thúy (Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, Hà
    Nội, 2004), “Lí luận phê bình văn học thế giới thế kỉ XX” (2007) Lộc Phương
    Thủy (chủ biên) , công trình dịch thuật và giới thiệu cuốn sách được xem là
    quan trọng của Phê bình mới: cuốn “Lí luận văn học” (Theory of Literature)
    (2009) của tác giả Wellek của Nguyễn Mạnh Cường, Tạ Hương Nhi, Trịnh Bá
    Đĩnh (dịch), Trần Thiện Khanh (giới thiệu); Về báo và tạp chí có tạp chí Văn
    học nước ngoài số 2, tháng 3 - 4, năm 2003, số 1 tháng 1 - 2, năm 2005.
    Cuốn sách: “150 từ điển thuật ngữ văn học” (1999) của Lại Nguyên Ân
    không bàn luận trực tiếp về khuynh hướng Phê bình mới. Trong phần trình
    bày khái niệm về phương pháp hình thức của cuốn sách (trang 265- 267), Lại
    Nguyên Ân trong khi trình bày về phương pháp hình thức nói chung ở các
    nước Tây Âu (như sự chú ý về vần thơ, luật thơ, kết cấu, mối quan hệ giữa
    ngữ nghĩa và cấu trúc, cú pháp, giọng điệu, hình thức có chứa nội dung, cốt
    truyện ) có nhắc đến kĩ thuật ‘đọc kĩ” tác phẩm trong khi coi nhẹ mọi thành
    tố “ngoài văn học” vốn là đặc điểm của Phê bình mới. Như vậy, dù không
    trực tiếp, Lại Nguyên Ân đã cho rằng Phê bình mới là một “ trường phái hình
    thức” và sử dụng phương pháp mà ông gọi là “phương pháp hình thức”. 3
    “Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX” (2001) do Phương
    Lựu chủ biên trình bày về khuynh hướng Phê bình mới (chương chín, trang
    242- 259) cả trên dòng chảy lịch đại cũng như lát cắt đồng đại. Sử dụng
    phương pháp lịch đại, Phương Lựu trình bày khái quát về quá trình lịch sử
    hình thành, phát triển, và tàn lụi của Phê bình mới qua ba thế hệ phê bình
    cùng với những đại biểu và một số nét về tiểu sử cũng như văn nghiệp của họ.
    Cụ thể là, Phương Lựu nêu lên thế hệ thứ nhất của Phê bình mới gắn với tên
    tuổi, tiểu sử và văn nghiệp của hai nhà lí luận phê bình Anh là: Ivor Amstrong
    Richards (1893- 1980) và Thomas Stearn Eliot (1888- 1965), thế hệ thứ hai
    của Phê bình mới bao gồm Rohn Crowne Ransom (1888- 1974) và Cleanth
    Brooks (1906- ?), và thế hệ thứ ba của Phê bình mới gắn với tên tuổi của nhà
    phê bình Rene Wellek (1903- ?). Sử dụng cách tiếp cận đồng đại, Phương
    Lựu nêu lên đặc điểm của khuynh hướng phê bình này thể hiện ở chiều dài
    thời gian, số lượng các nhà phê bình mới cũng như tính chất phức tạp, thậm
    chí khác nhau trong quan niệm về trọng điểm của phê bình của các nhà phê
    bình mới như Ivor Amstrong Richards, Thomas Stearn Eliot, Rohn Crowne
    Ransom, và Cleanth Brooks. Cũng bằng lát cắt đồng đại, Phương Lựu tiếp tục
    rút ra kết luận của ông về đặc điểm của Phê bình mới mà ông cho là có bốn
    đặc điểm chính. Đặc điểm đầu tiên về đối tượng của Phê bình mới theo
    Phương Lựu đó chính là văn bản. Đặc điểm thứ hai là Phê bình mới đặt trọng
    điểm của mình ở hình thức tác phẩm. Đặc điểm thứ ba về phương pháp tiếp
    cận tác phẩm là giải thích văn bản. Từ những đặc điểm này, Phương Lựu cho
    rằng Phê bình mới còn được gọi bằng các tên gọi như Phê bình bản thể, Phê
    bình hình thức và Phê bình chữ nghĩa. Cuối cùng, đặc điểm thứ tư của Phê
    bình mới theo Phương Lựu là sự không coi trọng việc phân tích tác phẩm theo
    đặc trưng thể loại. Tiếp tục với cách tiếp cận đồng đại, Phương Lựu giải thích
    ba khái niệm cơ bản trung tâm của Phê bình mới mà ông cho là cần thiết để có 4
    thể hiểu được khuynh hướng này đó là văn bản, ngộ nhận cảm thụ và ngộ
    nhận ý đồ. Không những giải thích các khái niệm cơ bản này, Phương Lựu
    còn đưa ra những nhận xét và kiến nghị hết sức kịp thời, xác đáng và hợp lí
    của ông về những khái niệm này. Những trang cuối cùng của “Lí luận phê
    bình văn học phương tây thế kỉ XX” bàn về khuynh hướng Phê bình mới này,
    Phương Lựu dùng để trình bày sơ lược về sự tàn lụi của Phê bình mới ở Pháp
    gắn liền với tên tuổi, tiểu sử, văn nghiệp và quan niệm về phê bình mới của
    Roland Barthes (1915-1980). Roland Barthes cùng với công trình “ Giải phẫu
    phê bình” ( Antatomy of Criticism) và khuynh hướng Phê bình mới “mới” ở
    Pháp đã đánh dấu sự tàn lụi của Phê bình mới vào những năm 1970.
    Cuốn sách :“Sự đỏng đảnh của phương pháp” của Đỗ Lai Thúy (Nhà
    xuất bản văn hóa thông tin, Hà Nội, 2004) in bài giới thiệu về tiểu sử, văn
    nghiệp và lí thuyết nghệ thuật vô ngã của nhà phê bình mới Thomas Stearn
    Eliot của tác giả Đỗ Lai Thúy và bài dịch “Truyền thống và tài năng cá
    nhân” trích từ cuốn “Rừng thiêng” của Thomas Stearn Eliot của dịch giả
    Thiệu Bích Hường.
    Cuốn sách: “Lí luận phê bình văn học thế giới thế kỉ XX” (2007) Lộc
    Phương Thủy (chủ biên) (từ trang 27- 127) chọn dịch và giới thiệu một bài
    nghiên cứu về Phê bình mới của nhà nghiên cứu người Nga là E.A. Suganova
    (do Đào Tuấn Ảnh dịch), giới thiệu tiểu sử và văn nghiệp của hai tác giả phê
    bình mới người Anh là Thomas Stearn Eliot (Đỗ Lai Thúy giới thiệu) và Ivor
    Amstrong Richards (Trần Hải Yến giới thiệu), chọn dịch và giới thiệu những
    bài viết tiêu biểu trong hai cuốn sách của hai nhà phê bình mới này, cụ thể là
    những bài viết : “Truyền thống và tài năng cá nhân” (Trần Hải Yến dịch), “
    Những nhà phê bình không hoàn hảo”, “Một nhà quí tộc lãng mạn”, “Phong
    vị địa phương”, “Ghi chú về nhà phê bình Mỹ” (Bùi Phương Hải dịch) trích
    từ cuốn sách “Rừng thiêng” (The Sacred Wood) của Thomas Stearn Eliot, 5
    những bài viết “Giá trị như một ý niệm tối thượng”, “Lí thuyết tâm lí về giá
    trị”, “Lí thuyết giao tiếp” và “Giá trị trải nghiệm của nhà thơ” (Trần Hải
    Yến, Phạm Phương Chi dịch) trích từ cuốn sách “Những nguyên tắc phê bình
    văn học” (The Principles of Literature) của Ivor Amstrong Richards.
    Nguyễn Mạnh Cường, Tạ Hương Nhi, Trịnh Bá Đĩnh dịch thuật và giới
    thiệu cuốn sách được xem là quan trọng của Phê bình mới: cuốn “Lí luận văn
    học” (2009) của Wellek và Warren.
    Tạp chí Văn học nước ngoài số 2, tháng 3- 4, năm 2003 (trang 173-
    195) cũng cho đăng bài giới thiệu về tiểu sử, văn nghiệp và lí thuyết nghệ
    thuật vô ngã của nhà phê bình mới Thomas Stearn Eliot của tác giả Đỗ Lai
    Thúy và bài dịch “Truyền thống và tài năng cá nhân” trích từ cuốn “Rừng
    thiêng” của Thomas Stearn Eliot (của dịch giả Thiệu Bích Hường).
    Tạp chí văn học nước ngoài số 1 tháng 1- 2, năm 2005 đăng bài nghiên
    cứu : “Trường phái Phê bình mới: xưa và nay” (trang 135- 156) của nhà phê
    bình: R. John Willingham (Giáo sư danh sự khoa Anh ngữ, đại học Kansas,
    Mỹ)
    Trên thế giới, sự phát triển nổi trội của khuynh hướng Phê bình mới ở
    Anh và Mỹ trong suốt những năm 1920 đến những năm 1960, 1970 đã tỉ lệ
    thuận với việc thu hút sự chú ý nghiên cứu bàn luận về khuynh hướng này.
    Những công trình, bài viết nghiên cứu về khuynh hướng phê bình này có rất
    nhiều (như các cuốn sách “A Glossary of the New Criticism” của tác giả
    Elton, William (Chicago. Modern Poetry Association, 1949) (sách lí giải về
    các thuật ngữ do Phê bình mới đưa ra vào cuối thập niên 1940), “The Fugitive
    Group: A Literary History” của tác giả Louise Cowan (Nhà xuất bản
    Louisiana State University, 1959), (Cuốn sách hàng đầu về biên niên sử và
    tiểu sử của nhóm nhà thơ- nhà phê bình Nashville từ giai đoạn còn là sinh
    viên cổ xúy về sáng tạo và tư duy cho đến khi trở thành các nhà lí luận Phê 6
    bình mới) “Kant và các nhà Phê bình mới miền Nam” của tác giả William J.
    Handy (Nhà xuất bản Texas, 1963) (Cuốn sách lần tìm lại các lý thuyết của
    Ransom, Tate và Brooks)), Song, ở đây, vì nhiều lí do, người viết luận văn
    chỉ chọn trình bày chi tiết một vài bài viết đã được dịch ra tiếng Việt của một
    số học giả, nhà lí luận phê bình nước ngoài, cụ thể là ba bài viết : “Trường
    phái Phê bình mới: xưa và nay” (trích từ “ New Literary History”, (1976))
    (trang 271-331) của nhà phê bình Willingham, John.R đăng trên Tạp chí văn
    học nước ngoài số 1 tháng 1- 2, năm 2005 và website:
    http://evan.vnexpress.net/News/phe-binh/ly-luan/2005, bài viết : “ Phê bình
    mới của Anh và Mỹ” (năm 2002) của học giả Nguyễn Hưng Quốc (học giả
    người Úc, gốc Việt, hiện đang sống và giảng dạy các môn ngôn ngữ, văn học,
    văn hóa và chiến tranh Việt Nam tại đại học Victoria University, Úc) đăng
    trên website: http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature và bài viết
    “ Phê bình mới” ( New Criticism) của học giả E.A.Suganova (trích từ cuốn “
    Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu
    và Hoa Kỳ thế kỉ XX” của I.P Ilin và E.A Tzurganova (Nxb Đại học quốc gia,
    Hà Nội 2003), in trong cuốn “Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ
    XX” do Lộc Phương Thủy chủ biên (trang 29- 42).
    Bài viết:“Trường phái Phê bình mới: xưa và nay”(The New Criticism:
    Then and Now) của nhà phê bình J.R.Willingham với quan điểm công khai
    bênh vực, bảo vệ cho Phê bình mới của ông, trình bày về lịch sử hình thành
    của Phê bình mới từ giai đoạn khởi phát, phát triển thịnh hành đến tàn lụi, kể
    tên các nhà phê bình mới nổi bật cùng những tác phẩm và đóng góp của họ
    cho Phê bình mới qua những tác phẩm ấy, và cuối cùng ông nêu ra những hạn
    chế cùng những đóng góp của Phê bình mới. Về lịch sử hình thành của Phê
    bình mới, khác với cách hiểu của Phương Lựu và E.A. Suganova như đã trình
    bày ở trên, theo J.R.Willingham, Phê bình mới hình thành những mần mống 7
    đầu tiên của mình vào năm 1907 với sự xuất hiện Câu lạc bộ Thi ca ở
    London, đặc biệt là các lời tuyên bố của T.E. Hulme, F.S. Flint, và Ezra
    Pound. Những người này phê phán Chủ nghĩa lãng mạn mà họ cho là đã xơ
    mòn và Chủ nghĩa Victoria mà họ cho là suy đồi và kêu gọi những sự thay đổi
    đối với thơ ca Anh. J.R.Willingham cho rằng Phê bình mới phát triển nổi trội
    vào những năm 1930- 1960 cùng với các nhà phê bình mới nhóm “Fugitives”
    và suy tàn kể từ thập kỉ 1970. J.R.Willingham dành phần lớn trang viết của
    mình để trình bày về các nhà phê bình mới mà ông cho là chính yếu cùng nội
    dung khái quát của các tác phẩm của họ qua đó nhằm nêu bật những đóng góp
    của họ cho Phê bình mới, cụ thể là T.S. Eliot ( với việc định nghĩa các khái
    niệm như “ truyền thống”, “ mối tương liên khách quan” ), I.A. Richards (
    với tác phẩm “ Practical Criticism” (1920)), nhóm “Fugitives” mà trưởng
    nhóm là R.C. Ransom (với tác phẩm: “ The New Criticism” (1941)), Allen
    Tate, Brooks và Warren (với tác phẩm: “ Understanding Poetry” (1938),
    “Understanding Fiction” (1941), ““Understanding Drama” (1948)), Brooks
    (với tác phẩm: “Modern Poetry and the Tradition” (1939) và“ The Well-
    Wrought Urn” (1947)), William K. Wimsatt và Rene Wellek (tác phẩm: “
    Theory of Literature” (1949)), William K. Wimsatt và Monroe C. Beardsley (
    tác phẩm “ The verbal Icon” (1954)), Wimsatt và Brooks (tác phẩm “
    Literary Criticism: A Short History” (1957)), Yvor Winters và cuối cùng là
    William Empson (tác phẩm “ Seven Types of Ambiguity”). Những trang cuối
    của “Trường phái Phê bình mới: xưa và nay”, J.R.Willingham nêu lên những
    hạn chế của Phê bình mới như việc sử dụng những từ ngữ bí hiểm và khó
    hiểu, không tạo điều kiện để độc giả đọc một cách sáng tạo cũng như
    những đóng góp của nó nhất là đối với việc làm nảy nở và phát triển về học
    thuật văn học 8
    Bài viết : “Phê bình mới của Anh và Mỹ” của học giả Nguyễn Hưng
    Quốc giới thiệu khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của Phê bình mới
    : xuất hiện tại Anh với hai đại biểu: T.S. Eliot và I.A. Richards từ giữa thập
    niên 1920, sau đó phát triển mạnh tại Mỹ với các đại biểu chính như John
    Crowe Ransom, W. K. Wimsatt, Monroe Beardsley, Cleanth Brooks, R. P.
    Blackmur và Allen Tate từ đầu thập niên 1940 đến giữa thập niên 1960. Đặt
    trong mối quan hệ so sánh những điểm tương đồng và khác biệt với Hình thức
    luận của Nga và Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nguyễn Hưng Quốc trình
    bày khái quát về đặc điểm của Phê bình mới ở Anh và Mỹ. Những đặc điểm
    của Phê bình mới theo Nguyễn Hưng Quốc là: bác bỏ Chủ nghĩa thực chứng
    trong nghiên cứu văn học, “tôn sùng” (chữ dùng của Nguyễn Hưng Quốc) văn
    bản tác phẩm văn học, nhấn mạnh vào việc phân tích và diễn dịch cụ thể văn
    bản, từ đó hình thành kĩ thuật mà ông gọi là “ đọc gần” (Close Reading), chú
    ý vào ý nghĩa và cấu trúc của văn bản . Nguyễn Hưng Quốc cũng nêu ra sự
    khác nhau trong việc quan niệm về ý nghĩa của văn bản của các nhà phê bình
    mới.
    Bài viết “Phê bình mới” của học giả người Nga E.A.Suganova cũng
    bàn về Phê bình mới cả theo dòng chảy lịch đại và lát cắt đồng đại như cuốn
    sách “Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX” của Phương Lựu,
    nhưng trong cách hiểu về lịch sử hình thành của Phê bình mới của học giả
    người Nga E.A.Suganova này có nhiều điểm khác so với cách hiểu của
    Phương Lựu. Sử dụng cách tiếp cận lịch đại, E.A.Suganova lí giải về tiền đề
    hình thành của khuynh hướng Phê bình mới. Theo E.A.Suganova, sự hình
    thành của Phê bình mới là sự phản ứng đặc thù đối với cuộc khủng hoảng của
    nghiên cứu văn học tự do thời Victoria cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Theo
    tác giả, Phê bình mới hình thành trong cuộc đấu tranh với những khuynh
    hướng cơ bản trong nghiên cứu phê bình văn học nửa sau thế kỉ XIX: Chủ 9
    nghĩa thực chứng, Phê bình ấn tượng, Trường phái văn hóa- lịch sử. Tiếp
    theo, khác với Phương Lựu chia Phê bình mới thành ba thế hệ, E.A.Suganova
    lại chia Phê bình mới thành tám giai đoạn hình thành và phát triển theo các
    mốc thời gian cùng với tên tuổi của các đại biểu của mỗi giai đoạn. Tám giai
    đoạn đó theo E.A.Suganova là: những năm của thập kỉ đầu thế kỉ XX được
    đánh dấu bằng hoạt động của các vị tiên khu như J.E. Spingarm, T.E. Home;
    Những năm 1920 cùng với các đại biểu là: T.S. Eliot, I.A. Richards, W.
    Empson ở Anh và cả những người thuộc phái Fugitives, phái Agrarians, trước
    tiên là J.C. Ransom và A. Tate ở Mỹ; Những năm 1930- 1940 cùng với các
    tác phẩm của các tác giả phê bình mới như J.C. Ransom, A. Tate, C. Brooks
    và R.P. Warren; Những năm 1940- 1950 cùng với những tờ tạp chí do các nhà
    phê bình mới đứng đầu: ở Anh như The Criterion (1922- 1939, tổng biên tập
    là T. S. Eliot), Scrutiny (1932- 1935, đứng đầu là F.R. Levins) và ở Mỹ như
    Southern Review (1935- 1942, tổng biên tập là C. Brooks, R.P. Warren),
    Kenyon Review (1938- 1959, tổng biên tập là J.C. Ransom), Sewanee Review
    (1944- 1945, tổng biên tập là A. Tate), xuất hiện thêm những tên tuổi mới như
    R.P. Blakmur, R. Wellek, W.K. Wimsatt, Y. Winters, K. Burk; Những năm
    1950 cùng với những cuốn sách của những tên tuổi như R. Wellek, O.
    Warren, W.K. Wimsatt, R. Krieger, C. Brooks và Wimsatt; Những năm 1950-
    1960, E.A.Suganova cho rằng Phê bình mới về cơ bản kết hợp một cách triết
    chung với những khuynh hướng phê bình văn học như: Trường phái Thần
    thoại học và Phê bình Hiện sinh; Những năm 1970, E.A.Suganova cho rằng
    Phê bình mới đã đánh mất vị trí thủ lĩnh của nó; Những năm 1980, Phê bình
    mới gắn liền với tên tuổi của giáo sư trường đại học tổng hợp California là
    Marry Krieger. Sử dụng cách tiếp cận đồng đại đối với Phê bình mới,
    E.A.Suganova trình bày khái quát quan điểm về phê bình, đối tượng của phê
    bình, phương pháp phê bình của các nhà phê bình mới theo thứ tự các giai 10
    đoạn hình thành và phát triển của khuynh hướng phê bình này mà bà đã phân
    chia: quan điểm của J.E. Spingarm, T.E. Home, T.S. Eliot, I.A. Richards,
    quan điểm của nhóm fugitives, của C. Brooks. E.A.Suganova cũng rút ra kết
    luận về các đặc điểm cơ bản của Phê bình mới như: sự đọc kĩ (close reading) ,
    sự nghiên cứu khép kín văn bản của tác phẩm nghệ thuật, nền tảng phân tích
    cơ bản của Phê bình mới là phương pháp nghiên cứu phân tích văn bản được
    cô lập khỏi các hiện tượng của thực tại và đời sống của nhà văn, nhiệm vụ
    phương pháp luận đối với nhà phê bình là tìm được cách thức tồn tại (mode of
    existence) của cấu trúc tác phẩm. Song song với việc nêu ra các đặc điểm cơ
    bản của Phê bình mới, E.A.Suganova còn đưa ra kết luận của bà về các
    nguyên tắc cơ bản của lí luận Phê bình mới đó là ba nguyên tắc: 1. Tác phẩm
    nghệ thuật là đối tượng chứ không phải thông báo. 2. Với tư cách là đối
    tượng, tác phẩm nghệ thuật tồn tại biệt lập với nhà nghệ sĩ, giống như “ đồ nữ
    trang đối với thợ kim hoàn”. 3. Tác phẩm nghệ thuật tồn tại như một đối
    tượng biệt lập với nghệ sĩ, có một chỉnh thể cấu trúc toàn vẹn và hữu cơ.
    Những trang cuối của bài nghiên cứu về Phê bình mới này, E.A.Suganova có
    đề cập đến khuynh hướng Phê bình mới ở Italia và Pháp (với tên tuổi của hai
    nhà phê bình mới Tz. Todorov và R. Barthes ở Pháp).
    Như vậy, điểm qua lịch sử nghiên cứu về Phê bình mới cả ở Việt Nam
    và thế giới, chúng ta dễ dàng nhận thấy những công trình nghiên cứu về Phê
    bình mới thường tập trung vào những vấn đề sau: lịch sử hình thành, phát
    triển thịnh hành và tàn lụi của Phê bình mới, các đại biểu tiêu biểu của Phê
    bình mới cùng một số nét khái quát về tiểu sử và quan điểm phê bình của họ
    qua các tác phẩm chính yếu của họ, đặc điểm cơ bản của Phê bình mới Qua
    việc trình bày các công trình nghiên cứu về Phê bình mới của các nhà nghiên
    cứu ở trên, chúng ta thấy rằng, ý kiến của các nhà nghiên cứu về các đại biểu
    chính của Phê bình mới, các tác phẩm quan trọng của họ, quan điểm phê bình
    của họ và các đặc điểm cơ bản của Phê bình mới, nhìn chung, là khá thống
    nhất. Sự khác nhau trong cách nhìn nhận về Phê bình mới của họ phần lớn tập
    trung ở phần nghiên cứu về lịch sử hình thành của Phê bình mới. Phê bình
    mới là một khuynh hướng phê bình văn học kéo dài trong nhiều thập kỉ, tồn
    tại ở nhiều nước, tập hợp rất nhiều nhà phê bình mới và cả những ai chưa tự
    biết mình là nhà phê bình mới với những quan niệm về phê bình nhiều khi rất
    khác nhau, thậm chí quan niệm của chính bản thân mỗi nhà phê bình mới ở
    những giai đoạn khác nhau cũng khác nhau, trọng điểm phê bình của họ cũng
    không giống nhau Cho nên, việc nghiên cứu về khuynh hướng phê bình này
    rất khó khăn, phức tạp và việc các nhà nghiên cứu có một vài ý kiến đây đó
    rải rác khác nhau về lịch sử hình thành của Phê bình mới cũng là điều dễ hiểu.
    Các công trình nghiên cứu nêu trên về Phê bình mới phần nhiều đều tập
    trung nghiên cứu về toàn bộ khuynh hướng phê bình này, đặc biệt là ở Anh và
    ở Mỹ. Ta rất ít thấy những công trình nghiên cứu tập trung đi sâu vào nghiên
    cứu về Phê bình mới ở từng nước mà nó hiện diện và ảnh hưởng để làm nổi rõ
    những nét đặc trưng về lịch sử hình thành, các nhà phê bình mới tiêu biểu,
    tiểu sử và quan điểm của họ, các tác phẩm của họ cũng như các đặc điểm của
    Phê bình mới ở từng nước cũng như trong từng giai đoạn phát triển của nó.

    3. Đối tượng nghiên cứu

    Khuynh hướng phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh

    4. Phạm vi nghiên cứu

    Thực hiện đề tài này, tôi không đi vào nghiên cứu làm rõ toàn bộ
    khuynh hướng Phê bình mới trên thế giới mà chỉ tập trung vào khuynh hướng
    Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh, làm rõ các tiền đề hình
    thành, các tác giả tiêu biểu, và các đặc điểm cơ bản của khuynh hướng Phê
    bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh.

    5. Mục đích nghiên cứu

    Luận văn này tập trung đi sâu làm rõ các tiền đề hình thành, các tác giả
    tiêu biểu, và các đặc điểm cơ bản của khuynh hướng Phê bình mới trong lí
    luận phê bình văn học Anh.

    6. Các phương pháp nghiên cứu

     Phương pháp khoa học chung: phân tích, tổng hợp, so sánh
     Phương pháp lịch sử phát sinh được dùng để khảo sát các tiền đề
    hình thành của khuynh hướng Phê bình mới trong lí luận phê
    bình văn học Anh
     Phương pháp tiểu sử được dùng để khảo sát các tác giả tiêu biểu
    của khuynh hướng Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học
    Anh
     Nghiên cứu lịch đại kết hợp với nghiên cứu đồng đại về khuynh
    hướng Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh

    7. Những đóng góp mới của luận văn

    Thực hiện luận văn này, người viết mong muốn làm rõ các tiền đề hình
    thành, các tác giả tiêu biểu, và các đặc điểm cơ bản của khuynh hướng Phê
    bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh một cách rõ ràng hơn, sâu sắc
    hơn, cụ thể hơn, toàn diện và có hệ thống hơn.
    Thêm nữa, vì chỉ khảo sát về Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học
    Anh, thay vì nghiên cứu toàn bộ khuynh hướng phê bình này, luận văn sẽ có
    điều kiện tập trung đi sâu nêu bật diện mạo của Phê bình mới trong lí luận phê
    bình văn học Anh.

    8. Kết cấu của luận văn

    Luận văn này ngoài mở đầu và kết luận gồm 3 chương:

    Chương 1. Các tiền đề hình thành khuynh hướng Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh

    1.1) Tiền đề xã hội và văn hóa 13
    1.2) Tiền đề triết học
    1.3) Tiền đề học thuật

    Chương 2. Các tác giả tiêu biểu của khuynh hướng Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh

    2.1) Thomas Stearn Eliot
    2.1.1) Tiểu sử và các tác phẩm chính
    2.1.2) Quan điểm phê bình
    2.2) Ivor Amstrong Richards
    2.2.1) Tiểu sử và các tác phẩm chính
    2.2.2) Quan điểm phê bình
    2.3) William Empson
    2.3.1) Tiểu sử và các tác phẩm chính
    2.3.2) Quan điểm phê bình

    Chương 3. Các đặc điểm cơ bản của khuynh hướng Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh

    3.1) Phê bình mới xem bản thân văn bản tác phẩm độc lập và khép kín là đối tượng của phê bình văn học
    3.2) Phê bình mới lấy việc phân tích chỉnh thể cấu trúc toàn vẹn và hữu cơ của văn bản tác phẩm văn học làm nội dung của phê bình văn học
    3.3) Phê bình mới xem kĩ thuật đọc kĩ lưỡng đối với văn bản tác phẩm văn học là phương pháp của phê bình văn học
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...