Thạc Sĩ Khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học đối với Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 29/12/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    3

    MỤC LỤC

    Mở đầu 1
    Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NỢ CÔNG VÀ KHỦNG
    HOẢNG NỢ CÔNG 16
    1.1. Nợ công và vai trò của nợ công đối với phát triển kinh tế - xã hội 16
    1.2. Khái niệm, nguyên nhân và tác hại của khủng hoảng nợ công 28
    1.3. Phương thức phòng, chống khủng hoảng nợ công 38
    Chương 2. THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
    TRÊN THẾ GIỚI 44
    2.1. Khái quát về lịch sử hình thành và thực trạng nợ công trên thế giới 44
    2.2. Diễn biến, thực trạng, nguyên nhân của khủng hoảng nợ công trên thế
    giới hiện nay 57
    2.3. Một số bài học về phòng tránh khủng hoảng và khắc phục hậu quả
    của khủng hoảng nợ công trên thế giới 77
    Chương 3. GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở
    VIỆT NAM TỪ BÀI HỌC VỀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TRÊN THẾ GIỚI 82
    3.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến nợ công của Việt Nam 82
    3.2. Một số giải pháp phòng, chống khủng hoảng nợ công ở Việt Nam từ bài
    học về khủng hoảng nợ công trên thế giới 96
    Kết luận và kiến nghị 103
    Tài liệu tham khảo 113
    Phụ lục 118

    4

    DANH MỤC BẢNG BIỂU
    Trang
    Bảng 2.1. Nợ công của các nước OECD 52
    Bảng 2.2. Nợ công của một số nước châu Á 56
    Bảng 2.3. Cho vay của các ngân hàng đối với chính phủ các nước Mỹ Latinh
    giai đoạn 1982 - 1988 59
    Bảng 2.4. Một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản của các nước EU trước và sau
    khủng hoảng tài chính toàn cầu 68
    Bảng 2.5 Tỷ lệ nợ công so với GDP của một số nước EU 71
    Bảng 3.1. Luồng vốn ròng vào các nước đang phát triển theo khu vực 84
    Bảng 3.2. Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 - 2010 92
    Bảng 3.3. Một số chỉ số đo lường hiệu quả quản lý nợ công của Việt Nam
    năm 2004 - 2010 theo mức ngưỡng của HIPCs 93

    DANH MỤC HÌNH VẼ
    Trang
    Hình 1.1. Nợ công trong hệ thống nợ quốc gia 21
    Hình 1.2. Nợ công của Hy Lạp so với mức trung bình Khu vực Euro 31
    Hình 2.1. Nợ công so với GDP của một số nước thời kỳ 1900 - 2010 47
    Hình 2.2. Mức độ nợ công ở một số khu vực thế giới thời kỳ 1980 - 1993 48
    Hình 2.3. Nợ công của các nền kinh tế phát triển thời kỳ 1970-2012 49
    Hình 2.4. Tỷ lệ nợ chính phủ trung bình của các nước G-7 51
    Hình 2.5. Bản đồ tình hình nợ công của các nước EU năm 2010 55
    Hình 3.1. Nợ nước ngoài của Chính phủ Việt Nam giai đoạn 1986 - 2010 90


    1

    MỞ ĐẦU
    1. TÝnh cÊp thiÕt cña ®Ò tµi
    Nợ công là khoản nợ do các cơ quan nhà nước vay trong và ngoài
    nước nhằm trang trải các khoản chi tiêu và góp phần thực hiện các chức
    năng, nhiệm vụ của mình. Trong nền kinh tế hiện đại, nợ công có vai trò rất
    quan trọng. Cùng với chi tiêu của chính phủ, nợ công là công cụ tài khóa
    góp phần điều chỉnh các cân đối lớn giữa tiêu dùng (C) - tích lũy (S) - đầu tư
    (I), điều chỉnh tổng cung - tổng cầu, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, phát triển kết
    cấu hạ tầng . Dưới hình thức tín phiếu hay trái phiếu chính phủ v.v., nợ
    công còn có ý nghĩa tạo lập và thúc đẩy phát triển thị trường tài chính quốc
    gia. Do vai trò quan trọng như vậy nên việc vay nợ của khu vực công trở
    thành phổ biến không chỉ ở các quốc gia đang phát triển như Việt Nam mà
    ở cả những quốc gia phát triển như Mỹ, Đức; không chỉ ở các quốc gia với
    tiềm lực tài chính mỏng mà còn ở các quốc gia có dự trữ tài chính hàng đầu thế
    giới như Nhật Bản, Trung Quốc .
    Tuy nhiên, nếu việc vay nợ và sử dụng các khoản nợ vay này không
    hợp lý và kém hiệu quả sẽ dẫn đến mất khả năng trả nợ và khủng hoảng nợ
    công thì nó không chỉ làm tăng nợ quốc gia, để lại gánh nặng nợ cho nhiều
    thế hệ mai sau, mà còn làm giảm thu nhập, tăng thất nghiệp, lạm phát cao,
    dẫn đến đổ vỡ, khủng hoảng kinh tế - xã hội và chính trị nặng nề.
    Thực tế trên thế giới cho thấy, khủng hoảng nợ công đã xẩy ra từ lâu
    như khủng hoảng nợ công ở Pháp năm 1826, khủng hoảng nợ công diễn ra
    tại 16 nước Mỹ Latinh những năm 1982 - 1985, trong đó điển hình là
    Mêhicô, Achentina, Braxin. Đỉnh cao của cuộc khủng hoảng này là vào
    tháng 8/1982, khi Bộ trưởng Tài chính Mêhicô tuyên bố nước này không
    thể trả nợ đến hạn và đã gây ra phản ứng dây chuyền tại các nước trong khu

    2

    vực. Đây là cuộc khủng hoảng nợ nghiêm trọng nhất tại khu vực này từ
    trước đến nay. Cuộc khủng hoảng đã gây nên những tổn thất nặng nề cho
    các quốc gia này: thu nhập giảm mạnh, tăng trưởng kinh tế bị đình trệ, thất
    nghiệp và lạm phát tăng cao. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, tăng
    trưởng GDP của ba nước lớn là Achentina, Braxin và Mêhicô giảm mạnh từ
    mức gần 10% trước năm 1980 xuống -4% đến -6% năm 1981 và -5% đến -
    8% năm 1985; lạm phát (theo CPI) tăng từ mức trên 100% năm 1982 lên trên
    2.000%-3.000% vào năm 1995. Sau khủng hoảng, nhiều quốc gia bị lệ thuộc
    vào các định chế tài chính quốc tế như IMF do phải nhận những gói cứu trợ.
    Khủng hoảng nợ công cũng đã và đang diễn ra ở nhiều nước Châu
    Phi. Nhiều nước nợ nần chồng chất, mất khả năng trả nợ. Theo số liệu của
    Ngân hàng Thế giới, nợ của các nước Châu Phi hiện lên tới trên 300 tỷ
    USD, trong đó riêng các nước HIPC có số nợ lên tới 117 tỷ USD. Khủng
    hoảng nợ đã làm cho nhiều nước châu Phi kiệt quệ. Đói nghèo, bệnh tật
    đang hoành hành tại nhiều nước ở châu lục này.
    Khủng hoảng nợ cũng đã diễn ra ở các nước châu Á trong cuộc khủng
    hoảng tài chính khu vực năm 1997-1999. Gần đây, khủng hoảng nợ công đã
    diễn ra tại Dubai do phải hoãn trả khoản nợ gần 60 tỷ USD của Dubai World.
    Khủng hoảng nợ công cũng không chừa các nước phát triển. Hiện tại,
    cả thế giới đang chứng kiến khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp - nước đứng thứ 27
    thế giới về giá trị GDP, thứ 25 thế giới về GDP bình quân người và thứ 22 về
    mức sống. Đến đầu tháng 5/2010, nợ quốc gia của Hy Lạp lên tới trên 300
    tỷ Euro, bằng khoảng 125% GDP của nước này- cao gấp đôi mức quy định
    của Liên minh Châu Âu (EU) - không quá 60%. Đến nay, tình hình tài
    chính - kinh tế của Hy Lạp rất nghiêm trọng, thâm hụt ngân sách lên tới
    13,6% GDP - gấp hơn 4 lần mức quy định của EU (dưới 3%). Các tổ chức

    3

    xếp hạng tín nhiệm như Moody, Standard&Poor, Fitch liên tục hạ thấp mức
    tín nhiệm tài chính đối với nước này. Ngày 27/4/2010, Standard&Poor hạ
    mức tín nhiệm nợ dài hạn và trung hạn đối với trái phiếu Hy Lạp tương ứng
    từ mức BBB+ và A-- xuống mức BB+ và B. Để đối phó với khủng hoảng
    nợ, Chính phủ Hy Lạp phải thắt chặt mạnh chi tiêu, cắt giảm lương và tăng
    thuế vì thế đã làm dấy lên làn sóng biểu tình và bạo lực với hàng chục nghìn
    người tham gia. Để tránh rơi vào vỡ nợ, Hy Lạp đã phải nhận gói cứu trợ lên
    tới 110 tỷ Euro (tương đương 146 tỷ USD) của Liên minh Châu Âu (EU) và
    Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) với ba điều kiện ngặt nghèo như: cắt giảm thâm hụt
    ngân sách xuống mức 3% vào năm 2014, cắt giảm chi tiêu công theo hướng
    “thắt lưng, buộc bụng” và tăng thuế, chịu sự giám sát tài chính quốc tế.
    Khủng hoảng nợ công cũng đang diễn ra ở các nước khác thuộc EU
    như Airơlen, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Tại Airơlen, tỷ lệ nợ quốc gia so
    với GDP cao nhất thế giới (lên tới 310%). Khủng hoảng nợ công ở các nước
    châu Âu không chỉ ảnh hưởng nặng nề đến từng quốc gia này mà còn làm
    xáo trộn, chấn động mạnh tới EU và cả thế giới.
    Với các gói kích thích kinh tế khổng lồ nhằm đối phó với Đại khủng
    hoảng kinh tế 2007-2009, nợ quốc gia ở nhiều nước tăng lên rất lớn. Theo Tạp
    chí Business Week, nhiều nước có nợ quốc gia ở mức nguy hiểm, trong đó có
    các nền kinh tế hàng đầu thế giới với tỷ lệ nợ/ GDP và thâm hụt ngân sách so
    GDP tương ứng như sau: Mỹ 93,6% và -9,9%; Nhật Bản 227% và -10,2%;
    Italia 120,7% và -5,6%; Aixơlen 310% và -9,9%; Ấn Độ 88,9% và -6,9%;
    Đức 84,5% và -4,6%, Pháp 82,6% và -7,1% . Mới đây, trên cơ sở nghiên
    cứu tình hình nợ nước ngoài tại 75 nước trên thế giới, Hãng tin tài chính
    CNBC đưa ra kết quả gây sửng sốt cho cả thế giới: hiện có 15 nước có mức
    nợ quốc gia (bao gồm cả nợ công và nợ của khu vực tư nhân) cao hơn nhiều

    4

    so với Hy Lạp. Trong đó, các nước đứng đầu danh sách về tỷ lệ nợ quốc
    gia so với GDP như sau: Airơlen (1.312%), Anh (425,9%), Thụy Sỹ
    (382,9%), Bồ Đào Nha (235,9%), Hà Lan (376,6%), Bỉ (328%), Đan
    Mạch (316%), Thụy Điển (264,3%), Tây Ban Nha (187%) . trong khi
    Hy Lạp chỉ có 170% . Như vậy, nguy cơ khủng hoảng nợ công có thể
    xẩy ra ở nhiều nước.
    Từ thực tế khủng hoảng nợ công ở các nước trên thế giới cho thấy,
    nguyên nhân và tác động của khủng hoảng rất khác nhau ở các quốc gia.
    Vấn đề được đặt ra là làm thế nào để phát hiện, ngăn chặn kịp thời và có
    biện pháp khắc phục nhanh hậu quả nếu khủng hoảng xẩy ra.
    Việt Nam là nước đang phát triển và bắt đầu bước vào ngưỡng “nước
    có thu nhập trung bình”. Do vậy, việc vay nợ của khu vực công để đáp ứng
    nhu cầu chi tiêu cho đầu tư phát triển là rất lớn. Thời gian qua, việc vay vốn
    trong nước và vay nợ nước ngoài dưới nhiều hình thức, đặc biệt là phát
    hành trái phiếu chính phủ tăng nhanh. Nợ công cũng vì thế tăng lên đáng
    kể. Theo Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, nợ của Chính phủ
    tăng từ 33,8% năm 2007 lên 41,9% năm 2009 và dự kiến lên 46,4% năm
    2010. Tuy tỷ lệ nợ công so với GDP cả nước vẫn nằm trong giới hạn an
    toàn, nhưng tốc độ tăng nợ công hiện nay, đặc biệt là nợ nước ngoài, là vấn
    đề đáng lo ngại. Với việc triển khai thực hiện nhiều dự án hạ tầng lớn như
    các dự án giao thông lớn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, xây dựng hai
    nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận và rất nhiều dự án khác, thì nợ của khu
    vực công sẽ tiếp tục tăng mạnh. Trong khi đó, hiệu quả đầu tư công có xu
    hướng giảm mạnh, chỉ số ICOR tăng nhanh từ khoảng 4 - 5 lần trước năm
    2000 lên 8 lần giai đoạn 2007-2009. Ngoài ra, với chính sách tỷ giá kém ổn
    định và đồng tiền VND mất giá nhanh đang làm tăng gánh nặng nợ quốc

    5

    gia, đặc biệt là nợ nước ngoài. Vì vậy, nếu không kiểm soát tốt nợ công thì
    Việt Nam rất có thể rơi vào “bẫy nợ” và khủng hoảng nợ công như các
    nước Nam Mỹ và một số nước khác. Do vậy, việc nghiên cứu khủng
    hoảng nợ công trên thế giới để rút ra những bài học nhằm phòng, tránh
    khủng hoảng nợ và hạn chế tác động xấu nếu khủng hoảng nợ xẩy ra là
    vấn đề rất bức xúc. Đó cũng là lý do của việc lựa chọn đề tài nghiên cứu:
    "Khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học rút ra cho Việt Nam"
    nhằm góp phần nào giải quyết những vấn đề cấp bách nêu trên.
    2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
    Khủng hoảng nợ công đã từng xẩy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới. Do
    vậy, vấn đề này đã được nhiều tổ chức quốc tế, nhiều quốc gia, nhiều nhà khoa
    học ở nhiều nước quan tâm và nghiên cứu. Hiện có không ít công trình
    nghiên cứu về nợ công và khủng hoảng nợ công, đặc biệt là ở nước
    ngoài. Dưới đây là tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan
    tới đề tài.
    Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
    Trên thế giới, tình trạng vỡ nợ và khủng hoảng nợ đã diễn ra từ lâu.
    Đại khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 xuất phát từ khủng hoảng nợ ngân
    hàng của khu vực tư nhân ở Mỹ đã gây ra những đổ vỡ trầm trọng ở nhiều
    nước trên thế giới. Sau khủng hoảng, chính phủ nhiều nước tăng cường can
    thiệp vào nền kinh tế, vay nợ để đầu tư phát triển. Đặc biệt là sau Đại chiến
    thế giới lần thứ hai, chính phủ nhiều nước phải vay nợ để khôi phục nền
    kinh tế bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh. Nợ công ở nhiều nước tăng lên
    và nguy cơ mất khả năng thanh toán, vỡ nợ và khủng hoảng tăng lên. Chẳng
    hạn năm 1946, nợ công của Mỹ lên tới 271 tỷ - bằng 122% GDP của nước
    này lúc bấy giờ. Từ những năm 1980 đến nay, thế giới đã chứng kiến nhiều

    6

    cuộc khủng hoảng nợ nói chung và nợ công nói riêng. Do tính chất nghiêm
    trọng của khủng hoảng nợ nên đã có nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế
    và các nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm đặc biệt đến nợ công và khủng
    hoảng nợ công. Đến nay, đã có khá nhiều công trình, kết quả nghiên cứu
    liên quan tới khủng hoảng nợ công được công bố. Các công trình và kết quả
    nghiên cứu liên quan tới đề tài tập trung vào các vấn đề sau:
    Một là, các công trình và kết quả nghiên cứu liên quan trực tiếp đến
    khủng hoảng nợ nói chung và nợ công nói riêng. Cụ thể như sau:
    Tương lai của khủng hoảng nợ công: toàn cảnh và một số gợi ý (The
    future of public debt: prospectives and implication), của các tác giả Stephen G
    Cecchetti, M.S. Mohanty and Fabrizio Zampolli (2010), xuất bản tại
    Mumbai, Ấn Độ. Bài viết phân tích thực trạng cán cân ngân sách, vay nợ
    của chính phủ và nợ công ở một số quốc gia; dự báo tương lai của nợ công
    và nguy cơ khủng hoảng nợ công ở các nước phát triển như Mỹ, Đức, Nhật
    Bản, Anh, Pháp . Một số gợi ý về chính sách được đề xuất nhằm kiểm soát
    nợ công và ngăn chặn khủng hoảng nợ công.
    Khủng hoảng nợ trong thế giới thứ nhất (The coming first world debt
    crisis), của tác giả Ann Pettifor (2006), Nxb Macmillan, Anh. Với 200
    trang, cuốn sách làm rõ những vấn đề về khủng hoảng nợ ở các nước phát
    triển - “thế giới thứ nhất”, bao gồm từ lịch sử khủng hoảng nợ trên thế giới
    những năm 1970, làm rõ nguồn gốc của khủng hoảng nợ, tình hình nợ công
    và nguy cơ khủng hoảng nợ của Anh và Mỹ, nhấn mạnh tính pháp lý và
    khía cạnh đạo đức của các khoản nợ.
    Từ Bắc chí Nam: khủng hoảng nợ và các chính sách điều chỉnh cơ
    cấu (From North to South: Debt crisis and structural adjustment policies),
    của tác giả Eric Tousaint (1998) - Chủ tịch Uỷ ban Xử lý nợ đối với các

    7

    nước thế giới thứ ba. Với dung lượng 396 trang, cuốn sách làm rõ những
    vấn đề cơ bản về nợ quốc gia, nợ công, tình hình nợ công và khủng
    hoảng nợ công ở các nước “thế giới thứ ba”, đặc biệt là khủng hoảng nợ
    công tại các nước Nam Mỹ và Đông Âu giai đoạn 1980-1990. Tác giả
    tổng hợp và đánh giá các chính sách điều chỉnh cơ cấu sau khủng hoảng
    nợ ở các nước này.
    Khủng hoảng nợ ở Vương quốc Anh - hướng dẫn thực hiện các luật
    phá sản mới (Britain’s debt crisis - a practical guide to the new Bankruptcy
    laws), của tác giả Tom Slator (2005). Với 272 trang, cuốn sách làm rõ
    những vấn đề cơ bản về khủng hoảng nợ, các quy định pháp lý về khủng
    hoảng nợ và phá sản ở Vương quốc Anh, hướng dẫn thực hành về phá sản,
    vỡ nợ theo các luật về phá sản ở Vương quốc Anh, đưa ra những chỉ dẫn để
    tránh rơi vào tình trạng phá sản, vỡ nợ và khắc phục nhanh tác động của
    chúng nếu gặp phải.
    Khủng hoảng nợ quốc tế từ bối cảnh lịch sử (The International debt
    crisis in Historical perspective), của nhiều tác giả do Barry Eichengreen và
    Peter H.Lindert biên tập (1992), The MIT Press, Cambride. Cuốn sách dày
    294 trang, tổng hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu về nợ và nguy cơ
    khủng hoảng tài chính trước khi xẩy ra cuộc khủng hoảng nợ những năm
    1980 trên thế giới. Theo đó, do không chú ý đến những kết quả nghiên cứu,
    các phân tích về tình trạng nợ ở một số nước và cảnh báo nguy cơ khủng
    hoảng nợ nên thế giới đã không tránh khỏi rơi vào khủng hoảng nợ chưa
    từng có những năm 1980. Cuốn sách cũng chỉ ra những bài học cơ bản về
    kiểm soát nợ.
    Giải quyết khủng hoảng nợ (Dealing with the debt crisis), của Ngân
    hàng Thế giới (1995). Sách gồm 18 chương với 308 trang, làm rõ tình trạng

    8

    nợ nần chồng chất trên thế giới, nghiên cứu tâm lý hành vi của chủ nợ và
    con nợ, chỉ rõ nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng nợ, làm rõ mối quan hệ
    giữa điều hành vĩ mô với nợ quốc gia, đề xuất một số cách thức phòng ngừa
    khủng hoảng nợ.
    Lịch sử những năm tám mươi - bài học cho tương lai (Histories of the
    Eighties - Lessons for the Future), của Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Liên Bang
    Mỹ - FDIC (1997), loạt bài viết nghiên cứu khủng hoảng nợ ở các nước
    kém phát triển (LCD), trong đó đặc biệt là các nước Mỹ Latinh, làm rõ
    nguồn gốc khủng hoảng, tình hình khủng khoảng nợ và những giải pháp
    khắc phục khủng hoảng nợ.
    Tìm hiểu khủng hoảng nợ (Understanding the debt crisis), của United
    Church of Canada (2006). Bài viết làm rõ khái niệm khủng hoảng nợ và
    minh họa bằng việc hệ thống hóa khủng hoảng nợ ở các nước trên thế giới: các
    nước Nam Mỹ, các nước có tỷ lệ nợ cao ở châu Phi (HIPC). Điều quan trọng là
    bài viết này phần nào làm rõ nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng nợ, trong
    đó nguyên nhân chủ yếu là kiểm soát vay nợ và sử dụng nợ yếu kém.
    Ngoài ra, có hàng chục cuốn sách và hàng trăm bài viết khác về
    khủng hoảng nợ dưới nhiều giác độ: toàn cầu, quốc tế, khu vực, nhóm nước
    và của một quốc gia. Chẳng hạn, các nghiên cứu dưới đây:
    - Bài học phía sau khủng hoảng nợ Hy Lạp, của giáo sư Paul
    Krugman, Tạp chí New York Time, ngày 10/4/2010.
    - Khủng hoảng nợ tại Hàn Quốc (South Koreans in the debt crisis),
    của tác giả Jesook Song (2009).
    - Nguyên nhân của khủng hoảng nợ, của tác giả Anup Shah (2007),
    Tạp chí Global Issues.

    9

    - Thị trường có giải quyết được khủng hoảng nợ công? (Has the Market
    solved the sovereign debt crisis), của tác giả Michael Bowe và Jame Deans
    (1997), Princeton University, New Jersey.
    - Khủng hoảng nợ tại châu Phi (The African Debt Crisis), của Trevor
    W.Parfitt và Stephen P.Riley (1989).
    Đặc biệt là từ khi diễn ra khủng hoảng nợ công tại các nước châu
    Âu (như Aixơlen, Hy Lạp), có rất nhiều bài viết, bản tin phân tích, đưa
    tin về khủng hoảng nợ công của các nước này và ở nhiều nước phát
    triển khác. Chẳng hạn như:
    - Nợ công - “Bom hẹn giờ” sau bầu cử ở Anh quốc? Tạp chí Tài
    chính JRJ, Trung Quốc, ngày 5/5/2010 (tài liệu dịch từ tiếng Trung Quốc).
    - Khủng hoảng nợ công có nguy cơ lan rộng khắp châu Âu, Tạp chí
    New York Time, ngày 29/4/2010 (tài liệu dịch từ tiếng Anh).
    - Nhật Bản đối mặt với khủng hoảng nợ công, Tạp chí Wall Street
    (WSJ), ngày 2/3/2010 (tài liệu dịch từ tiếng Anh).
    - Khủng hoảng nợ trầm trọng ở châu Âu, Tạp chí The Economist,
    ngày 4/2/2010.
    Hai là, các công trình nghiên cứu, các bài viết về nợ công và quản lý
    nợ công, đưa ra các chuẩn mực về nợ, có tác dụng kiểm soát nợ quốc gia,
    ngăn ngừa khủng hoảng nợ. Một số công trình, kết quả nghiên cứu như:
    Tài liệu hướng dẫn về quản lý nợ công (Guidelines for Public Debt
    management), của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới WB
    (2003), Washington DC, USA. Tài liệu gồm 278 trang, làm rõ khái niệm,
    vai trò quản lý nợ và đưa ra các tình huống cụ thể về nợ công của 15 nước
    thuộc 4 châu lục, rút ra 6 bài học về quản lý nợ công.

    10

    Quản lý nợ công (Public Debt Management), của tác giả Missale
    Alessandro (2000), Oxford University Press. Sách gồm 309 trang với 7
    chương, làm rõ những vấn đề cơ bản về nợ công như khái niệm và phân loại
    nợ, cách thức quản lý nợ công, cách giảm thiểu chi phí và rủi ro và đưa ra
    một số khuyến nghị về chính sách.
    Nguồn vay và quản lý nợ công (Derivates and Public Management),
    của giáo sư kinh tế Gustavo Piga (2001), Zurich, Switzerland. Sách gồm 160
    trang với 4 chương, làm rõ được nhiều nội dung cơ bản về nợ công và quản
    lý nợ công như: các nguồn vay nợ và sử dụng tối ưu hóa các nguồn này, lịch
    sử các nguồn nợ vay của các nước rơi vào khủng hoảng nợ, vấn đề quản lý
    rủi ro đối với nợ công, cải cách hệ thống kế toán để bảo đảm kiểm soát tốt
    vay và sử dụng nợ công .
    Thống kê nợ nước ngoài - hướng dẫn đối với người vay và người sử
    dụng vốn vay (External Debt Statistics - guide for Compilers and Users),
    của IMF (2003), Washington D.C. Sách gồm 309 trang với 4 phần và 19
    mục, không đơn thuần là số liệu thống kê mà đưa ra những quy định liên
    quan tới nợ nước ngoài: khái niệm, cách đo lường, phân loại nợ nước ngoài;
    vay nợ, nguồn vay và các nguyên tắc vay nợ nước ngoài; sử dụng có hiệu
    quả nợ vay.
    Ba là, các hoạt động thực tiễn liên quan tới kiểm soát nợ, ngăn ngừa
    khủng hoảng nợ.
    Từ sau khủng hoảng nợ những năm 1980, các tổ chức tài chính quốc
    tế như WB, IMF tăng cường kiểm soát khủng hoảng nợ trên thế giới, đưa ra
    chính sách kiểm soát vay nợi đối với các nước có tỷ lệ nợ cao và có nguy cơ
    khủng hoảng nợ. Từ năm 1996, các chủ nợ lớn trên thế giới đưa ra danh
    sách các nước nghèo nặng nợ (HIPC) và đề xuất một số sáng kiến nhằm

    11

    kiểm soát nguy cơ khủng hoảng nợ từ những nước này.
    Một trong các hoạt động thực tiễn có ý nghĩa cảnh báo và ngăn ngừa
    khủng hoảng nợ là việc cung cấp thông tin về tình hình nợ quốc gia của tất
    cả các nước. Theo đó, các tổ chức tài chính quốc tế đã hình thành mạng
    truyền thông thông tin về nợ quốc gia tại nhiều trang thông tin điện tử
    (Website) như: publicdebtnet.org, jedh.org/jedh_dbase v.v Theo đó, nợ
    nước ngoài của từng quốc gia được cập nhật hàng quý và số liệu mới nhất là
    hết quý III/ 2011. Một số quốc gia có nguy cơ khủng hoảng nợ cũng hình
    thành các website về nợ quốc gia như Aixơlen (debtAixơlen.org).
    Cùng có rất nhiều công trình nghiên cứu về nợ công và khủng hoảng
    nợ công, các công trình nêu trên đã góp phần tạo lập một cơ sở lý luận và
    thực tiễn góp phần phòng, tránh, ngăn chặn và xử lý những hậu quả của
    khủng hoảng nợ công. Nhờ đó, nhiều quốc gia trước đây rơi vào cảnh nợ
    nần chồng chất như các nước Mỹ Latinh thì đến nay không những không
    lặp lại những sai lầm đó mà còn tránh được khủng hoảng nợ, phát triển kinh
    tế vững chắc. Chẳng hạn, Mêhicô, Braxin và một số nước khác đã vượt lên,
    trở thành những nước có nền kinh tế khá mạnh, GDP từ khoảng 200 tỷ USD
    những năm 1980 lên trên 1.000 tỷ USD hiện nay.
    Tuy nhiên, bất chấp việc có “vô số” các nghiên cứu và kết quả nghiên
    cứu về khủng hoảng của rất nhiều tổ chức quốc tế, các quốc gia, các nhà
    nghiên cứu thì khủng hoảng nợ vẫn có xu hướng ngày càng gia tăng với
    mức độ nghiêm trọng hơn, xẩy ra không chỉ ở các nước nghèo đang phát
    triển mà cả ở những nước phát triển. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
    trạng này, nhưng trong đó nguyên nhân chủ yếu và quan trọng nhất dẫn đến
    khủng hoảng nợ là do nhiều quốc gia vẫn chưa rút được những bài học cần
    thiết từ rất nhiều khủng hoảng nợ trên thế giới, coi nhẹ những nguyên tắc cơ

    12

    bản trong quản lý nợ công và phòng ngừa khủng hoảng nợ công.
    Tình hình nghiên cứu trong nước
    Ở Việt Nam, đầu những năm 1990, vấn đề nợ công nói chung và nợ
    nước ngoài nói riêng cũng đã nổi lên và đã được dàn xếp ổn thỏa với WB, IMF,
    CHLB Nga và các nước khác. Từ đó đến nay, nợ công của Việt Nam luôn được
    duy trì ở mức an toàn. Do vậy, việc nghiên cứu khủng hoảng nợ công chưa thật
    sự được chú trọng. Tuy vậy, đã có một số công trình nghiên cứu, một số tài liệu
    liên quan đề tài, trong đó chủ yếu tập trung vào hai mảng lớn: nợ công và quản
    lý nợ công ở Việt Nam ; khủng hoảng nợ công ở nước ngoài.
    Về nợ công và quản lý nợ công, các nghiên cứu đã công bố bao gồm
    các đề tài khoa học, một số bài viết. Một số bài cụ thể như sau:
    - Quản lý nợ công ở Việt Nam, Đề tài khoa học do Trường đại học
    Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh thực hiện, TP Hồ Chí Minh 2007. Kết quả
    nghiên cứu này làm rõ được một số vấn đề về nợ công và quản lý nợ công,
    đánh giá được phần nào thực trạng nợ công và đề xuất được một số giải
    pháp nhằm hoàn thiện quản lý nợ công ở nước ta. Tuy nhiên, do khung khổ
    có hạn nên nhiều vấn đề về nợ công và khủng hoảng nợ công chưa được đề
    cập thỏa đáng.
    - Quản lý tài chính công ở Việt Nam, của tác giả Vũ Thị Nhài (2007),
    NXB Tài chính, Hà Nội. Công trình này bàn về quản lý tài chính công và có
    đề cập một phần đến nợ công.
    - Tình hình nợ công và quản lý nợ công ở Việt Nam, của tác giả Mai
    Thu Hiền và Nguyễn Thị Như Nguyệt (2011), Tạp chí Ngân hàng, số 14 (7-
    2011). Trong bài viết này, các tác giả đã điểm lại thực trạng nợ công của
    Việt Nam đến tháng 10-2011, đánh giá khả năng trả nợ và mức an toàn về

    13

    nợ công của Việt Nam, đề xuất giải pháp tăng cường quản lý nợ công từ
    những giải pháp chung như phát triển nội lực nền kinh tế, xây dựng môi
    trường tài chính hiệu quả, đến các giải pháp cụ thể như kiểm soát nợ công ở
    mức an toàn, sử dụng nợ công hiệu quả.
    - Luật Quản lý nợ công, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội, 2010. Đây
    là cơ sở pháp lý quan trọng quy định về nợ công, các chuẩn mực về nợ công
    cần tuân thủ, trách nhiệm của các cơ quan hữu quan liên quan tới nợ công ở
    Việt Nam.
    Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khác, trong đó đáng chú ý
    là nghiên cứu về tài chính công của WB tại Việt Nam. Kết quả này đưa đến
    bức tranh chung về tài chính công của Việt Nam, những kết quả đạt được và
    những hạn chế về nợ công và quản lý nợ công.
    Về khủng hoảng nợ công, số công trình nghiên cứu về mảng này còn
    ít, chủ yếu là các bài viết ngắn về khủng hoảng ở nước ngoài, các bài dịch
    của nước ngoài. Dưới đây là một số bài đáng chú ý:
    - Khi nợ công trở thành khủng hoảng, của tác giả Nguyễn Ngọc
    Trường, Tạp chí Tổ quốc, ngày 8/3/2010. Tác giả điểm qua tình hình khủng
    hoảng nợ công tại Hy Lạp và liên hệ với thực tế ở Việt Nam với những lo
    ngại do xu hướng vay nợ của Chính phủ ngày càng tăng.
    - Có thể xuất hiện một Hy Lạp thứ hai ở châu Á, Vnexpress.net, ngày
    16/3/2010. Bài viết chỉ rõ, với gói kích cầu khổng lồ (4.000 tỷ tệ - tương
    đương 586 tỷ USD) và việc tăng vay nợ của các công ty đầu tư tài chính địa
    phương đã làm tăng nợ công của Trung Quốc lên 2.000 tỷ USD. Cùng với
    hiệu quả thấp của các khoản đầu tư công, nước này có nguy cơ rơi vào
    khủng hoảng nợ công như Hy Lạp.

    14

    - Một thế giới nợ nần, của tác giả Phạm Quốc Trụ, trang thông tin
    điện tử của Bộ Ngoại giao, ngày 27/4/2010.
    - Bẫy nợ nần - lối thoát nào cho các nước nghèo, của tác giả Nguyễn
    Thị Hoa, Tạp chí Cộng sản, số 97/2005.
    Ngoài ra, còn một số nghiên cứu khác được đăng tải dưới dạng các đề
    tài khoa học, sách tham khảo, các bài viết đăng báo . Tuy nhiên, phần lớn
    các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào liệt kê nợ công, chưa có
    nhiều công trình nghiên cứu khủng hoảng nợ công. Trong bối cảnh đẩy
    mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nhu cầu
    và khả năng vay vốn của Nhà nước tăng lên rất lớn, tỷ lệ nợ công tăng
    nhanh trong những năm tới. Do vậy, cần chú trọng nghiên cứu khủng
    hoảng nợ của các nước để rút ra bài học cho Việt Nam để phòng, tránh
    khủng hoảng nợ là vấn đề rất cấp thiết hiện nay.
    3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
    Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận
    và thực tiễn liên quan tới khủng hoảng nợ công để rút ra bài học và đề xuất
    giải pháp nhằm góp phần phòng tránh khủng hoảng nợ công ở Việt Nam.
    Trên cơ sở đó, các mục tiêu cụ thể và nhiệm vụ đặt ra là:
    - Hệ thống hóa một cách toàn diện cơ sở lý luận về khủng hoảng nợ
    công: bao gồm khái niệm, nguyên nhân, tác động của khủng hoảng nợ công
    và phương thức phòng tránh, xử lý khủng hoảng nợ công.
    - Đánh giá thực trạng khủng hoảng nợ công ở một số nước, nhóm
    nước trên thế giới, làm rõ những nguyên nhân chủ yếu, những phương thức
    xử lý khủng hoảng nợ công và rút ra một số bài học thực tế.
    - Đề xuất một số giải pháp nhằm phòng, chống khủng hoảng nợ

    15

    công; kiến nghị việc ứng dụng các bài học rút ra từ khủng hoảng nợ của
    thế giới cho Việt Nam.
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu là khủng hoảng nợ công ở một số nước, khu
    vực trên thế giới, làm rõ những biểu hiện, những nguyên nhân và rút ra bài
    học cho Việt Nam.
    Phạm vi nghiên cứu đề tài là tập trung làm rõ khủng hoảng kinh tế các
    nước châu Âu hiện nay, đồng thời có xem xét khủng hoảng của khu vực Mỹ
    Latinh những năm 1980.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    Để đạt được các mục tiêu đề ra, đề tài sử dụng phương pháp luận và
    phương pháp nghiên cứu sau:
    Về phương pháp luận: Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp
    luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để tiếp cận và giải quyết vấn đề,
    xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động không ngừng và trong sự tương
    tác lẫn nhau gắn với những điều kiện lịch sử, cụ thể.
    Về phương pháp nghiên cứu: Việc nghiên cứu đề tài đòi hỏi phải sử
    dụng nhiều phương pháp như phân tích, tổng hợp, so sánh, mô hình hóa, hệ
    thống hóa v.v Phương pháp tổng hợp, phân tích được sử dụng nhiều với tần
    suất cao để tổng hợp tư liệu, phân tích tình hình, diễn biến; phương pháp so
    sánh nhằm làm nổi bật khái niệm, bản chất và các nội dung về kiểm soát lạm
    phát ở Việt Nam.
    6. Kết cấu của Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu
    Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung Báo cáo tổng hợp được kết
    cấu thành 3 chương, 8 tiết.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...