Tóm tắt kinh tế Việt Nam và thế giới đang trong giai đoạn suy thoái, hoặc tệ hơn nữa, khủng hoảng. Bài viết này hướng tới việc lý giải các nguyên nhân dẫn đến suy thoái/ khủng hoảng kinh tế và từ đó đưa ra các khuyến nghị chính sách từ góc nhìn của lý thuyết kinh tế trường phái Áo. Dựa trên kinh nghiệm của cuộc Đại khủng hoảng 1929-1932 và các diễn biến gần đây của nền kinh tế Mỹ, bài viết này cho rằng khả năng kinh tế Mỹ và thế giới tiếp tục rơi sâu vào khủng hoảng trong một thời gian tương đối dài là rất lớn. Đối với nền kinh tế Việt Nam, bài viết cho rằng những chính sách kiểm soát giá cả, kiểm soát hàng hóa, tài chính mở rộng, tiền tệ mở rộng, và duy trì vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là những nguyên nhân làm cho cấu trúc sản xuất của nền kinh tế Việt Nam bị méo mó nghiêm trọng, dẫn đến sự bất ổn vĩ mô trong 2008. Thêm nữa, tình trạng cấu trúc méo mó của nền kinh tế Việt Nam hầu như chưa được cải thiện trong những năm vừa qua, đặt ra nguy cơ của các bất ổn vĩ mô quay trở lại trong thời gian tới. Để có thể tránh rơi vào khủng hoảng trong trước mắt cũng như đạt được tăng trưởng bền vững trong dài hạn, Việt Nam nên rà soát loại bỏ các chính sách cản trở sự phát triển của thị trường, theo đuổi chính sách tài khóa thận trọng và cắt giảm chi tiêu ngân sách, theo đuổi chính sách tiền tệ trung tính, và tiếp tục đẩy mạnh cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước. Mục lục 1. Dẫn nhập 4 2. Lý thuyết chu kỳ kinh doanh của trường phái kinh tế Áo: từ sai lầm trong kế hoạch kinh doanh cá nhân cho tới khủng hoảng 6 2.1. Yếu tố sai lầm và yếu tố học hỏi trong các kế hoạch kinh tế cá nhân 6 2.2. Sự vận động của nền kinh tề thị trường 7 2.3. Sai lầm hệ thống và chu kỳ kinh doanh .7 2.4. Sự khủng hoảng .10 3. Về cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay: Một số nhận xét 11 3.1. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay 12 3.2. Những lo lắng không đáng có .14 3.3. Đánh giá các giải pháp đang được chính phủ Mỹ áp dụng gần đây 16 3.4. kinh tế thế giới đi về đâu? 18 4. Việt Nam: những mầm mống của suy thoái và khủng hoảng 20 4.1. Các biện pháp can thiệp gián tiếp 20 4.2. Các biện pháp can thiệp trực tiếp .25 5. Các kết luận và khuyến nghị chính sách 32 Tài liệu tham khảo .36 1. Dẫn nhập Đâu là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế? Làm thế nào để đối phó với khủng hoảng? Đây là những câu hỏi được quan tâm hàng đầu hiện nay bởi tất cả các giới ở Việt Nam, từ những nhà nghiên cứu kinh tế, những nguời làm chính sách, cho tới hầu hết các cá nhân tham gia vào nền kinh tế. Mối bận tâm này xuất phát từ những bất ổn từ cả bên ngoài và bên trong Việt Nam. Ở bên ngoài, nền kinh tế thế giới năm 2008 trải qua một loạt các khủng hoảng kế tiếp nhau như khủng hoảng cho vay địa ốc dưới chuẩn của Mỹ, sự dao động với biên độ cực lớn trong một thời gian ngắn của giá nguyên liệu cơ bản, đặc biệt là dầu thô và lương thực, sự sụp đổ của các công ty tài chính hàng đầu ở phố Wall, sự sụp đổ hệ thống ngân hàng ở Iceland, và cuối cùng là sự suy thoái của toàn bộ các nền kinh tế trên thế giới. Ở trong nước, vào nửa đầu năm 2008, hầu hết các chỉ số vĩ mô của nền kinh tế của Việt Nam đều ở tình trạng báo động, trong đó đặc biệt phải kể đến chỉ số giá bán lẻ (CPI) (so với cùng kỳ năm ngoái) ở thời điểm cao nhất tăng lên đến hơn 28% và thâm hụt cán cân thương mại ở mức kỷ lục tới 17,5 tỷ USD; thêm vào đó, thị trường chứng khoán bị suy giảm rất mạnh, thị trường bất động sản rơi vào tình trạng đóng băng. Mặc dù, từ giữa năm trở đi các chỉ số vĩ mô bắt đầu đi vào ổn định với CPI và thâm hụt cán cân thương mại hàng tháng giảm dần, nhưng bắt đầu từ quí IV/2008, tăng trưởng kinh tế bắt đầu suy giảm, hiện tượng sa thải nhân công, doanh nghiệp thua lỗ, thậm chí phá sản có chiếu hướng gia tăng. Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều nghiên cứu, phân tích của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước về nguyên nhân dẫn đến các bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước, các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu và tác động của nó đến Việt Nam, và đánh giá các tác động của các chính sách chính phủ tới nền kinh tế 2 . Tuy nhiên, các nghiên cứu này hoặc thường thiên về mô tả hoặc thường dựa trên các phương pháp nghiên cứu vĩ mô tổng hợp Keynesian-tân cổ điển. Ưu điểm của các cách tiếp cận này là chúng thường giúp cho ta có cái nhìn nhanh chóng về tổng thể nền kinh tế. Nhưng chúng lại có nhược điểm cơ bản là thiếu nền tảng vi mô, tức hành vi của các chủ thể thực sự tham gia vào các hoạt động của nền kinh tế. Chính vì thế, các nghiên cứu này thường đưa ra các giải pháp chính sách có tác động trực tiếp và ngắn hạn, trong khi bỏ qua các tác động thứ cấp và dài hạn. Nghiên cứu này sẽ sử dụng lý thuyết chu kỳ kinh doanh của trường phái kinh tế Áo để phân tích nguồn gốc của khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay cũng như sự bất ổn và suy thoái kinh tế ở Việt Nam. Về cơ bản, nó chỉ ra rằng suy thoái xảy ra bắt nguồn từ việc đại bộ phận chủ thể kinh tế nhận ra rằng các kế hoạch và kỳ vọng kinh tế của họ trở nên sai lầm đến mức không thể điều chỉnh, khiến họ phải đồng loạt phải dừng hoặc hủy bỏ. Đằng sau của sự thất bại hàng loạt của các kế hoạch kinh tế cá nhân đa phần là do các tín hiệu sai từ các chính sách của chính phủ chứ không phải là do hành vi phi lí tính của các chủ thể kinh tế. Lý giải cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, căn cứ vào lý thuyết này, các nhà kinh tế trường phái Áo chỉ ra rằng nguyên nhân chủ yếu là do Mỹ duy trì các định chế cho vay nhà thế chấp dưới chuẩn, do Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) duy trì mức lãi suất thấp trong một thời gian dài, và do Trung Quốc cố duy trì đồng Nhân dân tệ yếu để xuất siêu. Đối với Việt Nam, nguyên nhân là do sự tích tụ của một loạt các chính sách về kiếm soát giá và kiểm soát hàng hóa, chính sách tài khóa mở rộng, chính sách tiền tệ nới lỏng, và chính sách duy trì khối doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng các can thiệp tiếp theo của chính phủ Mỹ như kích cầu, giải cứu các công ty sắp phá sản, bơm tiền v.v. đều chưa chắc cải thiện được tình hình, nhưng lại có thể làm cho tình hình kinh tế trở nên tồi tệ hơn. Trên cơ sở đó, nghiên cứu này cho rằng tình hình kinh tế thế giới sẽ khó có thể sáng sủa trở lại trong năm tới; và ngay khi suy thoái chấm dứt thì tình trạng trì trệ có khả năng sẽ kéo dài thay vì hồi phục nhanh chóng. Chính phủ Việt Nam vì thế cần rất thận trọng trong việc sử dụng các biện pháp can thiệp trực tiếp như kích cầu hay nới lỏng tiền tệ để chống suy giảm kinh tế. Một khi chính phủ chi tiêu quá nhiều hoặc lượng tiền được đưa ra lưu thông quá lớn trong khi năng lực sản xuất không thể cải thiện do cả sự yếu kém nội tại và sự suy thoái toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam dễ bị rơi trở lại vào bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát hoặc thâm hụt cán cân thanh toán. .