Luận Văn Khu du lịch Đặng Thùy Trâm trong xu thế phát triển du lịch lịch sử - văn hóa của tỉnh Quảng Ngãi

Thảo luận trong 'Du Lịch' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Khu du lịch Đặng Thùy Trâm trong xu thế phát triển du lịch lịch sử - văn hóa của tỉnh Quảng Ngãi


    LỜI MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Nằm giữa hai đầu đất nước với những lợi thế về di sản, băi biển, các giá trị sinh thái và đa dạng sinh học, Quảng Ngăi hội đủ các điều kiện để phát triển du lịch. Song trong khi các tỉnh trong khu vực đă thật sự tạo dấu ấn riêng, th́ Quảng Ngăi vẫn chưa trở thành một điểm đến của du khách. Làm thế nào để thu hút đầu tư du lịch, thu hút khách du lịch? Câu hỏi này đă và đang đặt ra cho Quảng Ngăi nhiều vấn đề về quy hoạch, xây dựng, quảng bá, nhân lực
    Nghị quyết 04 của Tỉnh ủy (khóa XVII) đă xác định, đến năm 2015 du lịch sẽ trở thành ngành kinh tế có đóng góp quan trọng trong tổng sản phẩm của tỉnh. Tuy nhiên sau 4 năm thực hiện, Quảng Ngăi - vùng đất được đánh giá giàu tiềm năng, lợi thế vẫn có những bước đi chậm răi. Nhiều ư kiến cho rằng dù có thế mạnh, nhưng việc phát huy chưa tốt, hạ tầng du lịch yếu kém, dịch vụ thiếu chuyên nghiệp nên chưa tạo môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư.
    Năm 2010 Quảng Ngăi đă đón gần 345.000 lượt khách đến tham quan; doanh thu cả năm ước đạt 215 tỷ đồng. Mặc dù lượt khách du lịch đến Quảng Ngăi năm sau cao hơn năm trước, nhưng trên thực tế, tốc độ tăng trưởng về lượng khách và thu nhập du lịch của tỉnh vẫn chưa tương xứng và chưa mang tính bền vững. Nói cách khác, ngành du lịch tỉnh Quảng Ngăi vẫn chưa mời được khách đến và chưa đáp ứng được nhu cầu của khách, v́ các dịch vụ đi kèm, sản phẩm du lịch không để lại ấn tượng trong ḷng du khách.
    Trong khi đó việc kết hợp của tour, du lịch lữ hành chưa tốt. Đó là chưa h́nh thành, xây dựng được tour, tuyến du lịch, nhất là du lịch nội tỉnh. Quảng Ngăi nói chung và các huyện Sơn Tịnh, B́nh Sơn, Lư Sơn, thành phố Quảng Ngăi nói riêng có những địa danh nổi tiếng như chiến thắng Vạn Tường, Khu Chứng tích Sơn Mỹ những thắng cảnh đẹp như Thiên Ấn niêm hà, Cổ lũy cô thôn, La hà thạch trận những lễ hội đặc sắc như Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, lễ hội chùa Ông , Các di tích lịch sử được xếp hạng di tích lịch sử, di tích văn hóa quốc gia như: Đền thờ Anh hùng dân tộc Trương Định, chùa Thiên Ấn, địa đạo Đám Toái ; Những đậc sản nổi tiếng như Tỏi Lư Sơn, cá bống Sông Trà . là những tiềm năng để tuyến du lịch TP Quảng Ngăi - Sơn Tịnh - B́nh Sơn - Lư Sơn phát triển với nhiều loại h́nh du lịch khác nhau. Đặc biệt Năm 2005, cuốn nhật kí của một nữ bác sĩ Quân đội Nhân dân trong thời chiến tranh Việt Nam đă tạo ra dư luận ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Chỉ v́ người ghi lại những ḍng nhật kí đó là Bác sỹ Đặng Thùy Trâm, một cô gái trẻ người Hà Nội đă t́nh nguyện đi B, đă sống, chiến đấu, hi sinh trên chiến trường ở Quảng Ngăi, c̣n số phận cuốn nhật kí lại theo một người lính Mỹ phiêu bạt đến Hoa Kỳ, để rồi 35 năm sau người lính Mỹ cất giữ quyển nhật kí mới t́m được người thân của tác giả để cho gia đ́nh biết rằng trước khi hi sinh cô đă để lại cho đời những tâm tư thầm kín nhất. Cuốn Nhật kư đă được Đạo diễn Đặng Nhật Minh dựng thành bộ phim “ Đừng đốt”. Một bộ phim được đánh giá là đạt đến mức Quốc tế về đề tài chiến tranh. V́ vậy, Gần đây, tại xă Phổ Ḥa, huyện Đức Phổ, Quảng Ngăi đă xuất hiện thêm một khu di tích lịch sử cách mạng khá nổi tiếng, đó chính là khu du lịch di tích Đặng Thùy Trâm. Năm 2006, khu bệnh xá Đặng Thùy Trâm đă được xây dựng tại xă Phổ Cường, bệnh xá vừa là nơi khám chữa bệnh cho người dân vừa là nơi trưng bày những h́nh ảnh, hiện vật liên quan đến liệt sĩ Đặng Thùy Trâm.
    Khu du lịch được xây dựng cách trạm xá Đặng Thùy Trâm khoảng 12 - 15 km, khu du lịch có tổng diện tích khoảng 250 ha (bao gồm cả diện tích rừng và mặt nước), tổng số vốn đầu tư khoảng 400 tỷ đồng. Quảng Ngăi dự kiến sẽ xây dựng, hoàn thiện và đưa vào sử dụng khu du lịch Đặng Thùy Trâm trong năm 2012.
    Khu du lịch Đặng Thùy Trâm ngoài chức năng du lịch c̣n có mục tiêu giáo dục truyền thống văn hóa nên địa phương sẽ tái hiện lại lịch sử kháng chiến và quá tŕnh làm việc của liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Khu du lịch cũng là nơi sinh sống của khoảng 20 hộ dân người Hré; v́ thế du khách khi đến tham quan sẽ có cơ hội t́m hiểu lịch sử, môi trường tự nhiên và văn hóa đặc trưng của đồng bào dân tộc Hré.
    Sở Văn hóa Thể Thao và Du Lịch Quảng Ngăi kư kết với chính quyền huyện Đức Phổ và Ba Tơ mở tuyến du lịch “Theo ḍng nhật kư của liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thùy Trâm” Nhung cho đến nay, do những yếu kém, hạn chế của ngành du lịch Quảng Ngăi mà tuyến du lịch này vẫn chưa phát triển như mong đợi của khách du lịch trong và ngoài nước.
    Với những tiềm năng du lịch dồi dào của ḿnh, chắn chắn trong tương lai không xa, khu du lịch di tích Đặng Thuỳ Trâm sẽ trở thành một điểm nhấn không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh du lịch của ngành du lich tỉnh Quảng Ngăi. Tuy nhiên làm thế nào để khu du lịch này có thể phát triển lâu dài và bền vững, chứ không chỉ là một điểm du lịch trong tuyến du lịch nội tỉnh, vẫn đang là một câu hỏi lớn cho ngành du lịch tỉnh.
    Với ư nghĩa thiết thực đó, em quyết định chọn đề “Khu du lịch Đặng Thùy Trâm trong xu thế phát triển du lịch lịch sử - văn hóa của tỉnh Quảng Ngăi” cho khóa luận tốt nghiệp của ḿnh.
    2. Mục đích nghiên cứu
    Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm đưa ra một cái nh́n tổng quát về thực trạng du lịch tại khu du lịch Đặng Thuỳ Trâm, đánh giá các yếu tố góp phần vào sự phát triển du lịch bền vững tại khu du lịch này và từ đó đề ra những định hướng và giải pháp cụ thể để góp phần thúc đẩy khu du lịch phát triển theo hướng bền vững và hiệu quả nhất.
    3. Phương pháp nghiên cứu
    Để thực hiện nghiên cứu đề tài, một số phương pháp chính được sử dụng trong quá tŕnh nghiên cứu và thực hiện khóa luận, đó là:
    - Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu.
    - Phương pháp thống kê.
    - Phương pháp phân tích và dự báo.
    - Phương pháp so sánh.
    4. Bố cục đề tài
    Bên cạnh lời mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận được tŕnh bày ở ba chương:
    Chương I: Khái quát chung về tỉnh Quảng Ngăi và khu du lịch Đặng Thuỳ Trâm
    Chương II: Tiềm năng và hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch và phát triển du lịch lịch sử văn hóa ở khu du lịch Đặng Thùy Trâm
    Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển du lịch lịch sử văn hóa bền vững ở khu du lịch Đặng Thùy Trâm trong xu thế phát triển của tỉnh Quảng Ngăi










    CHƯƠNG I
    KHÁI QUÁT CHUNG VÀ TỈNH QUẢNG NGĂI
    VÀ KHU DU LỊCH ĐẶNG THÙY TRÂM

    1. Khái quát chung về tỉnh Quảng Ngăi:
    1.1 Lịch sử h́nh thành và phát triển:
    Theo các nhà Sử học cũ th́ vị trí miền Ấn - Trà ngày nay, xưa kia đời vua Thuỷ Hoàng nhà Tần, thuộc đất Tượng quận, đời Hán vua Vơ Đế năm thứ 111 thuộc quận Nhật Nam. Cuối đời Đông Hán năm 192, viên Công Tào huyện Tượng Lâm là Khu Liên, nhân trong xứ có loạn, giết quan huyện lệnh, tự lập làm vua, dựng nước Lâm Ấn. Đời Tuỳ, vua Tùy Dương đế Đại nghiệp năm đầu, b́nh định quân Lâm Ấn, chia làm 3 châu Quảng Châu, Xung Châu, Nông Châu sau đổi quận Hải Âm; đời Đường đổi thuộc Sơn Châu; đời Tống (960 - 1278) thuộc Cổ Lũy động của Chiêm Thành.
    Năm 1400, Hồ Quư Ly sai Hành Khiển Đỗ Măn làm thuỷ quân Đô tướng đem 15 vạn quân đi đánh Chiêm Thành, gặp mùa nước lũ các cánh quân không liên lạc được, hết lương thực, năm 1401 phải rút quân về.
    Tháng 3 năm 1402, Hồ Hán Thương lên ngôi, tháng 7 lại phong Đỗ Măn làm Đỗ tướng, Nguyễn Vị làm Chiêu dụ sứ đem đại binh đánh Chiêm Thành.
    Vua Chiêm - Ba Đích Lại sai tướng Chế Sất Nan cầm quân chống cự bị thua, sai cậu là Bố Điền dâng một con voi trắng, một voi đen và phẩm vật xin dâng Chiêm động (phần phía nam Quảng Nam ngày nay).
    Vua nhà Hồ ép sứ giả phải đổi tờ biểu, buộc Chiêm Thành nạp cả động Cổ Luỹ nữa (phần phía bắc Quảng Ngăi ngày nay).
    Năm 1406 quân Minh sang xâm lược và thống trị nước ta: Hồ Hán Thương thua chạy. Nhân cơ hội này, Chiêm Thành đem quân chiếm lại Chiêm động và Cổ Lũy động.
    Đời Minh thuộc (1407-1427) dưới quyền cai trị của Trương Phụ và Mộc Thanh, phủ Thăng Hoa tuy có đặt quan nhưng Chiêm Thành vẫn c̣n Trưởng lộ, nhà Minh chỉ ghi tên không mà thôi.
    Đầu nhà Lê (1428) 2 châu Tư và Nghĩa tuy thuộc nhà vua nhưng chỉ trên danh nghĩa, không bị trực tiếp cai trị, vẫn ở ngoài ṿng pháp chế. Để ngăn chận những vụ cướp phá của người Chiêm, triều Lê phải nghĩ đến việc đem đại binh chinh phạt
    Tháng giêng năm 1446, vua Nhân Tông sai Đô đốc Lê Thọ, Tổng quản Lê Khả, Thiếu phó Lê Khắc Phục đem hơn 60 vạn quân đi đánh Chiêm Thành. Quân nhà Lê thừa thắng kéo đến Thị Nại. Tháng 4, quân Nhà Thọ đánh Trà Bàn thắng lớn, bắt vua Chiêm là Bí Cai, phi tần, bộ thuộc, ngựa voi, vơ khí và hàng tướng đem về. Cháu của vua Bố Đề là Ma Ha Qui Lai đă hàng, sai bề tôi dâng biểu xưng thần nên được lập làm vua (1446-1449).
    Năm 1467, vua Chiêm Trà Toàn đem quân quấy nhiễu Hoá Châu. Năm 1470, tháng 8, lại đem hơn 10 vạn quân thuỷ bộ, voi, ngựa, ra đánh Hoá Châu lần thứ hai. Kinh lược sứ Thuận Hoá là Phạm Văn Hiển chống cự không nổi phải cấp báo triều đ́nh.
    Vua Lê Thánh Tông quyết định thân chinh, trưng 26 vạn tinh binh, ban 24 điều lệnh, sai Thái sứ Định Liệt Thái bảo Lê Niệm làm Chánh lỗ tướng quân lănh thuỷ quân đi trước. Ngày Tân Tỵ, vua cáo Thái miếu, thân xuất đại quân đi theo, đến miền Thiết Sơn (Nghệ An) gặp nhau. Năm 1471 vua đóng quân ở Thuận Hóa.
    Đại quân đến cửa biển Tân Ấp (hiện Đại Ấp Tam kỳ). Ngày 5 tháng 2 vua Chiêm Trà Toàn sai em đem 6 viên tướng và 5.000 quân, 100 voi lẻn đến bức dinh trại. Vua Lê mật sai Tả du kích tướng quân Lê Hy Cát, Hoàng Nhân Thiểm và Tiền phong tướng quân Lê Thế, Trịnh Văn Sái đem hơn 500 chiến thuyền, 3 vạn tinh binh ban đêm vượt biển vào cửa Sa Kỳ (thuộc B́nh Sơn Quảng Ngăi) lập đồn lũy để chận đường về của quân Chiêm. Ngày hôm sau, vua đem hơn 1.000 chiến thuyền và 7 vạn tinh binh ra biển gióng cờ, đánh trống ḥ reo tiến tới, mặt khác tướng quân bộ binh Nguyễn Đức Trung đă đem quân chiếm các đường ven núi.
    Quân Chiêm liệu chống cự không nổi giày xéo nhau, tan vỡ bỏ chạy về Trà Bàn, đến núi Mộ Nộ ở phía tây cửa Sa Kỳ gặp quân Lê Hy Cát, quân Chiêm hoảng hốt chạy ngang lên núi cao, bỏ lại người, ngựa, lương thực đầy đống. Bấy giờ vua Lê Thánh Tông đến Thể Cần (cửa Sơn Trà hiện nay, đông bắc quận B́nh Sơn) cho binh tiến đánh, chém hơn 300 đầu, bắt sống hơn 60 người. Được tin em thua, Trà Toàn sai một người trong hoàng gia đến xin hàng. Vua Lê cũng sai sứ giao thiệp nhưng vẫn tiến binh. Ngày 27, vua thân xuất đại quân đánh Thị Nại, chém hơn 100 người. Ngày 28, vua tiến binh đến Trà Bàn, ngày 29 đến dưới thành, vây mấy ṿng, sai quân làm thang leo lên. Ngày Mồng 1 tháng 3 hăm thành Trà Bàn, sai quân leo thang vào phía cửa Đông chém hơn 4 vạn, bắt Trà Toàn và hơn 3 vạn người, ngày mùng 2,ban sư.
    Năm Hồng Đức thứ 2 (1471), tháng 6, vua Thánh Tông lấy đất Chiêm Thành vừa chiếm lại đặt đạo Thừa tuyên Quảng Nam. Đạo Thừa tuyên nầy là 1 trong số 13 đạo thừa tuyên trong nước, thống lănh 3 phủ, 9 huyện trong đó có phủ Tư Nghĩa gồm 3 huyện: B́nh Dương (sau đổi thành B́nh Sơn), Mộ Hoa, (đời Thiệu Trị đổi Mộ Đức) và Nghĩa Giang (năm Thành Thái chia đất Nghĩa Giang nhập vào huyện Nghĩa Hành và phủ Tư Nghĩa).
    Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) vua Thánh Tông cải chia nước làm 13 xứ, đổi thừa Tuyên làm xứ, mỗi xứ đặt sở Thủ ngữ Kinh lược sứ.
    Xứ Quảng Nam lănh 3 phủ, 9 huyện trong đó có phủ Tư Nghĩa gồm có 3 huyện: Nghĩa Giang 12 tổng, 93 xă; B́nh Sơn 6 tổng, 70 xă; Mộ Hoa 6 tổng, 5 xă. Tháng 10 năm Mậu Ngọ 1558 đời vua Anh Tông, Đoạn quận công Nguyễn Hoàng vào trấn phủ Thuận Hoá, năm 1570 kiêm lănh trấn Quảng Nam.
    Năm Hoằng Định thứ 5 (1604) cải đặt và đổi tên các khu vực hành chánh Thuận Quảng, đổi phủ Tư Nghĩa thành Quảng Nghĩa phủ đặt chức tuần vũ, khám lư nhưng cũng thuộc Quảng Nam dinh.
    Đời Nguyễn Tây Sơn (1788-1802) cải đặt và đổi tên các khu vực hành chánh Thuận Quảng, đổi phủ Tư Nghĩa thành Hoà Nghĩa phủ.
    Năm 1802, vua Gia Long khôi phục Hoà Nghĩa phủ đặt tên là Quảng Nghĩa dinh, các chức quan cai trị gọi là Lưu thủ, Cai bộ, Kư lục.
    Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) chia đặt tỉnh hạt, đổi trấn làm tỉnh. Trấn Quảng Nghĩa đổi thành tỉnh Quảng Nghĩa và đặt 2 ty Bố án (Bố chánh và Án sát) thống thuộc với Quảng Nam. Năm 1834 lại gọi là Nam trực tỉnh.
    Năm Thành Thái thứ 2 (1890) ngoài 3 huyện B́nh Sơn, Chương Nghĩa và Mộ Đức thuộc phủ Tư Nghĩa thời Nguyễn, thực dân Pháp đặt thêm 3 châu: Sơn Tịnh, Nghĩa Hành, Đức Phổ thuộc Nghĩa Định Sơn Pḥng. Năm 1900 triệt băi Sơn Pḥng, đổi 3 châu ấy làm 3 huyện do tỉnh kiêm quản đặt chức Tuần vũ, bổ chức Bố chánh, cai trị 1 phủ : phủ Tư Nghĩa, B́nh Sơn, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Tịnh, Đức Phổ gồm tất cả 24 tổng, 426 xă, thôn ấp, trại.
    Từ 1909 đến cuối của triều Nguyễn (1945) miền Trung châu Quảng Ngăi được chia thành 4 phủ : B́nh Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức : 2 huyện Nghĩa Hành, Đức Phổ gồm 21 tổng, 403 làng. Miền thượng được chia thành 4 nha : Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ với 27 tổng, 199 "nóc"; miền Trung duyên hải có nha Lư Sơn 2 làng.
    - Từ ngày 9-3-1945 đến 19-8-1945 tổ chức hành chánh không đổi mấy, chỉ thay đổi trên danh từ: Tuần vũ gọi là tỉnh trưởng, ở huyện gọi là huyện trưởng, chức Chánh, Phó sứ thời Pháp do một cơ quan hiến binh Nhật đảm trách.
    - Từ ngày 19-8-1945 đến ngày 1-11-1954 (ngày hội nghị trung giả quyết định chuyển giao quyền cai trị trong khuôn khổ hiệp định chuyển giao quyền cai trị trong khuôn khổ hiệp định Genève (ngày 20-7-1954)
    Thời kỳ đầu của cuộc tổng khởi nghĩa toàn dân năm 1945, tỉnh Quảng Ngăi được đổi tên là tỉnh Lê Trung Đ́nh, phủ Tư Nghĩa đổi thành phủ Nguyễn Thụy(Sụy), xă Chánh Lộ lấy tên xă Nguyễn Viện v.v . Về tổ chức, lập liên xă, bỏ các làng cũ. Nhưng, sau một thời gian thay danh hiệu tỉnh, huyện , tổng, xă đều lấy lại tên cũ. Các phủ, huyện, nha trong tỉnh đều gọi tên thống nhất là huyện, gồm tất cả 10 huyện, tổng, 124 liên xă. Đảo Lư Sơn nhập vào huyện B́nh Sơn nhưng năm 1952 bị quân Pháp chiếm đóng sát nhập hải đảo vào thị xă Đà Nẵng.
    Năm 1947, uỷ ban hành chánh các cấp đổi tên là uỷ ban kháng chiến hành chánh có thêm hai uỷ viên chỉ định ngang, tất cả 7 người. Ngoài ra ở cấp tỉnh có các cơ quan chuyên môn và quân sự:
    - Từ 1 tháng 11 năm 1954 đến nay (1971) Tỉnh Quảng Ngăi được chia thành 10 quận: B́nh Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ (quận trung châu); Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ (quận thượng). Sốxă trong toàn tỉnh có thay đổi, năm 1968 có 158 xă; năm 1970 theo sự sát nhập của Bộ Nội Vụ 122 xă, 319 ấp. Hai xă ở hải đảo Lư Sơn sát nhập quận B́nh Sơn lấy tên B́nh Vĩnh, B́nh Yến. Xă Cẩm Thành nằm giữa tỉnh lỵ, trước kia thuộc quận Tư Nghĩa hiện đă tách rời, trực thuộc Toà Hành Chánh tỉnh.
    Ranh giới Quảng Ngăi lúc c̣n là phủ Tư Nghĩa dưới đời vua Lê Thánh Tông, từ năm Hồng Đức thứ 2 (1471) giáp phủ Hà Đông (Tam Kỳ) phái nam sông Bến Ván tới đèo B́nh Đê.
    Hiện nay ranh giới Quảng Ngăi chạy từ phía Nam dốc Sỏi, xă B́nh Thắng (B́nh Sơn) đến giữa đèo B́nh Đê thuộc xă Phổ Châu (Đức Phổ).
    Trải qua nhiều thế kỷ, dân tộc Chiêm từng lấy miền đất nầy làm thành lũy ngăn chận cuộc Nam tiến của dân tộc Việt. Hiện nay tại địa phương c̣n vài di tích lịch sử, thỉnh thoảng đồng bào vẫn c̣n đào được nhiều tượng đá với nét khắc tuyệt mỹ, tiêu biểu cho nền văn minh Chiêm Thành.
    Đến Quảng Ngăi, du khách vẫn c̣n nghe một số tên địa phương chỉ tên sông như: Trà Khúc, Trà Bồng, chỉ cửa biển: Sơn Trà. Những tên nầy có giọng Chiêm v́ tiếng Trà do chữ Phạn Jaya, một ḍng họ vua Chiêm trong 4 họ chính thống On, Ma, Trà, Chế. Hiện ở xă Tư Ḥa, quận Tư Nghĩa c̣n nhiều gia đ́nh mang ḍng họ Chế với ngôi mộ tiền hiền của họ. Nhà thờ họ Chế ở thôn Đông Mỹ (ấp Mỹ Viên) c̣n giữ được sắc phong của Triều Nguyễn (Bảo Đại).
    Phong trào di dân vào Quảng bắt đầu từ nữa thế kỷ 15 khi Hồ Quư Ly ra lệnh cho dân có của mà không có ruộng ở Nghệ An đem vợ con vào ở để khai khẩn, lại mộ người có trâu đem nạp, cấp cho phẩm tước để lấy trâu cấp cho dân cày. Đời Lê Thánh Tông, sau khi thắng Chiêm về cũng có xuống chiếu mộ dân và đă có những người dân ở vùng Nghệ vượt biển di cư vào Quảng. Ngoài những phần tử t́nh nguyện trên c̣n có hạng bị bắt buộc phải di cư vào đất Quảng. Ấy là những tù nhân bị kết án lưu đày, tù xử tội lưu đi cận châu th́ sung vệ quân ở Thăng Hoa, đi ngoài châu th́ sung vệ quân ở Tư Nghĩa.
    1.2. Vị trí địa lư, điều kiện tự nhiên:.
    a.Vị trí địa lư:
    - Diện tích: 5.135,2 km2
    - Dân số: 1. 295. 608 người (tính đến 31/12/2006)
    - Tỉnh lỵ: Thành phố Quảng Ngăi
    - Các đơn vị hành chính: 01 thành phố; 13 huyện. Trong đó có 01 huyện đảo (Lư Sơn), 06 huyện đồng bằng (B́nh Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ), 06 huyện miền núi ( Ba Tơ, Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Tây, Sơn Hà, Minh Long); 180 xă phường, thị trấn (8 phường, 10 thị trấn và 162 xă).
    - Dân tộc: Kinh, Hrê, Cor, Ca-Dong.
    - Nhiệt độ trung b́nh năm : 25,5[SUP]o[/SUP] - 26,3 [SUP]o[/SUP]C, nhiệt độ cao nhất lên đến 41[SUP]o[/SUP]C và thấp nhất là 12[SUP]o[/SUP]C
    - Tỉnh Quảng Ngăi nằm ở vùng duyên hải miền Trung, tựa vào dăy Trường Sơn, hướng ra biển Đông (với chiều dài bờ biển 144 Km), phía Bắc giáp Quảng Nam (với chiều dài đường địa giới 98 Km), phía Nam giáp B́nh Định (với chiều dài đường địa giới 83 Km), phía Tây Nam giáp Kon Tum (với chiều dài đường địa giới 79 Km). Quảng Ngăi có quốc lộ 1A chạy qua tỉnh, cách Hà Nội 883km về phía Nam, cách thành phố Hồ Chí Minh 838 km về phía Bắc; quốc lộ 24A nối Quảng Ngăi với Tây Nguyên, Lào và vùng Đông Bắc Thái Lan. Bờ biển với nhiều băi tắm và phong cảnh đẹp.
    Tỉnh Quảng Ngăi nằm ở toạ độ địa lư:
    Từ 14°31'50" đến 15°25'30" vĩ độ Bắc.
    Từ 108°14'05" đến 109°05'00" kinh độ Đông.
    b.Điều kiện tự nhiên:
    Sông Ng̣i
    Quảng Ngăi có 04 con sông chính:
    - Sông Trà Bồng: dài 55 km, phát nguyên từ nguồn Thanh Bồng (Trà Bồng), chảy xuyên qua huyện Trà Bồng và huyện B́nh Sơn, đến thôn Giao Thuỷ (xă B́nh Dương) lại chảy về hướng Đông Bắc, đổ ra cửa Sa Cần. Sông Trà Bồng có các phụ lưu như: Sa Thin, Trà Pốt, Trà San, Bán Điền. Nước sông cạn, về mùa nắng thuyền bè từ 3 đến 5 tấn không đi lại được.
    -Sông Trà Khúc: dài 120 km, phát nguyên từ núi Đac Tơrôn với đỉnh cao 2.350m do hợp nước của 4 con sông lớn là sông Rhe, sông Xà Ḷ, sông Rinh, sông Tang, chảy xuống hướng Đông qua ranh giới các huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, thành phố Quảng Ngăi và đổ ra cửa biển Cổ Luỹ (cửa Đại). Sông Trà Khúc c̣n có các phụ lưu như Đac Lang, Nước Lác, Đăc Sêlơ, Tam Dinh, Xă Điệu, Tầm Rao, sông Giang, sông Phước
    - Sông Vệ: dài khoảng 80km, phát nguyên từ vùng rừng núi phía Bắc huyện Ba Tơ, thượng nguồn là sông Liên chảy theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, xuyên qua các huyện Ba Tơ, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Tư Nghĩa và đổ ra cửa Lở (An Chuẩn, Đức Lợi, Mộ Đức) và cửa Cổ Luỹ. Sông vệ có các phụ lưu: Trà Nu, sông Lă, sông La Châu Chi lưu của sông Vệ là sông Thoa chảy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam tưới cho đại bộ phận đồng lúa Mộ Đức.
    - Sông Trà Câu: dài 40 km, phát nguyên từ vùng Hồng Thuyền, Vực Liêm (phía Nam đèo Đá Chát) chảy xuyên qua huyện Đức Phổ để ra cửa biển Mỹ Á.
     
Đang tải...