Luận Văn Khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào và hoàn thuế giá trị gia tăng trong giai đoạn hiện nay

Thảo luận trong 'Thuế - Hải Quan' bắt đầu bởi Bống Hà, 4/4/13.

  1. Bống Hà

    Bống Hà New Member

    Bài viết:
    5,424
    Được thích:
    2
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI NÓI ĐẦU

    Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) được Nhà nước ban hành và thực hiện từ ngày 1/1/1999. Cùng với việc ban hành luật thuế GTGT, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 89/1998/TT-BTC hướng dẫn thi hành nghị định số 28/1998/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT. Sự ra đời này đã đánh dấu 1 bước ngoặt lớn trong việc cải cách cơ chế quản lý kinh tế-tài chính, đặc biệt là chính sách thuế của Nhà nước. Từ đó đến nay cũng đã có thêm một số những sửa đổi bổ sung góp phần hoàn thiện luật thuế GTGT.
    Thực tế đã chứng minh, thuế GTGT có nhiều điểm tích cực. Ngoài việc tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, thuế GTGT còn tạo ra cách làm ăn mới cho các doanh nghiệp (DN), hoàn thiện sắc thuế cũ không còn phù hợp và tạo đà cho nền kinh tế nước ta hoà nhập vào khu vực và trên thế giới. Tuy vậy, sau hơn 3 năm thực hiện, luật thuế GTGT đã có những vấn đề bất cập mà một trong những vấn đề được mọi người quan tâm nhiều nhất là vấn đề khấu trừ, hoàn thuế GTGT. Tình trạng vi phạm trong lĩnh vực này liên tục xảy ra với chiều hướng ngày càng tăng và đến mức báo động. Do đó, công tác nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để luật thuế GTGT ngày càng hoàn thiện luôn là hết sức cần thiết.
    Để nghiên cứu kỹ những vấn đề còn tồn tại của luật thuế GTGT và lựa chọn những giải pháp thích hợp đòi hỏi phải đi sâu vào nhiều vấn đề. Tuy nhiên, với trình độ còn hạn chế và trong phạm vi hạn hẹp của đề án, em chỉ xin có một vài ý kiến bàn về vấn đề “Khấu trừ thuế GTGT đầu vào và hoàn thuế GTGT trong giai đoạn hiện nay”.
    I. TỔNG QUAN VỀ THUẾ GTGT
    1. Sự ra đời của thuế GTGT:

    Trước năm 1999, trong nhiều năm liên tục, thuế doanh thu được áp dụng rộng rãi trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, loại thuế này đã tỏ rõ nhiều bất hợp lý và nhược điểm đòi hỏi phải có sự thay đổi.
    Thuế GTGT ra đời trong hoàn cảnh đó, thể hiện được tính ưu việt so với thuế doanh thu. Nó loại bỏ được tình trạng thu thuế trùng chéo, thuế đánh chồng lên thuế qua các khâu sản xuất, lưu thông, tiêu thụ hàng hoá.
    2.Khái niệm:
    Thuế GTGT là loại thuế đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông và tiêu thụ.
    3. Phạm vi áp dụng thuế GTGT:
    a. Đối tượng chịu thuế:
    Theo quy định tại Điều 2 luật thuế GTGT và Điều 2 Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ thì đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam, trừ các đối tượng không chịu thuế nêu tại Mục II Phần A Thông tư 122/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000.
    b. Đối tượng nộp thuế GTGT:
    Theo quy định tại Điều 3 luật thuế GTGT và điều 3 Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ thì tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức tổ chức kinh doanh và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế GTGT đều là đối tượng nộp thuế GTGT.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...