Luận Văn Khảo sát thành phần hóa học của củ gừng được thu hái tại huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Thảo luận trong 'Hóa Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Khóa luận tốt nghiệp năm 2012
    Đề tài: Khảo sát thành phần hóa học của củ gừng được thu hái tại huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam


    MỞ ĐẦU
    1. Lí do chọn đề tài
    Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu chăm sóc sức khỏe của con người càng
    được quan tâm. Vì vậy, việc nghiên cứu các chất mang hoạt tính sinh học cao có
    trong các loài cây cỏ đã và đang là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Hi ện nay, trên
    thế giới và ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu xác định thành phần, cấu
    tạo của các chất có trong các loại cây và kết quả đã đưa ra một số chất có khả năng
    kháng khuẩn, chống ung thư góp phần cho sự phát triển của dược học.
    Việt Nam là một nước nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên hệ thực vật vô
    cùng đa dạng và phong phú. Trong đó, có nhiều cây dược liệu quý hiếm. Đó là
    nguồn tài nguyên sinh học vô cùng quý giá. Vì vậy, từ xưa đến nay, con người đã
    khai thác nguồn tài nguyên này để làm thuốc chữa bệnh, dược phẩm, mỹ phẩm,
    hương liệu
    Trong đời sống hàng ngày, gừng, riềng, nghệ thuộc họ gừng (Zingiberaceae)
    là các loại cây hết sức quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Chúng là nguồn
    cung cấp gia vị trong việc chế biến các món ăn, đồng thời cũng là nguồn cung cấp
    dược liệu để chữa bệnh. Chỉ nói riêng loài gừng, đó là loài thực vật thuộc chi
    Zingiber, họ Zingiberaceae rất phổ biến ở nước ta. Chúng không những mọc hoang
    ở các vùng núi mà còn được trồng khá phổ biến để làm gia vị cho các món ăn và
    dùng để chữa bệnh.
    Hiện nay, ở tỉnh Quảng Nam có nhiều người dân trồng một loại gừng được
    gọi bằng nhiều tên khác nhau như: gừng gió, mai gan, ngải xanh, ngải mặt trời,
    gừng dại dùng để chữa một số bệnh như: ứ huyết, trúng gió, đau bụng, đau nhức
    sưng tấy , đặc biệt là điều trị bệnh xơ gan cổ trướng và kinh doanh, nhưng quy mô
    vẫn còn nhỏ. Người dân trồng và sử dụng chúng chỉ mang tính kinh nghiệm. Do đó
    chưa khai thác hết các ứng dụng của loài cây quý này. Vì vậy, tôi chọn đề tài:
    “Khảo sát thành phần hóa học của củ gừng được thu hái tại huyện Điện Bàn,
    tỉnh Quảng Nam” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp, nhằm đóng góp các thông tin có
    ý nghĩa khoa học vào kho tàng dược liệu quý của dân gian Việt Nam, chúng tôi hi
    3
    vọng với kết quả nghiên cứu của đề tài kết hợp với các kết quả nghiên cứu khác về
    chi Zingiber sẽ góp phần đưa ra các biện pháp khai thác và nâng cao hiệu quả sử
    dụng loài cây này.
    2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    Củ gừng được lấy từ vườn tại Huyện Điện Bàn, Tỉnh Quảng Nam.
    3. Mục đích nghiên cứu
    - Xác định một số thông số hóa lý của củ gừng.
    - Xác định thành phần hóa học, công thức cấu tạo của một số hợp chất có
    trong củ gừng.
    4. Phương pháp nghiên cứu
    Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
    4.1. Nghiên cứu lý thuyết
    Thu thập, tổng hợp các tài liệu, tư liệu, sách báo trong và ngoài nước có liên
    quan đến đề tài, trao đổi kinh nghiệm với các chuyên gia, thầy cô giáo và đồng
    nghiệp.
    4.2. Phương pháp thực nghiệm
    - Phương pháp lấy mẫu, thu hái và xử lí mẫu.
    - Phương pháp phân hủy mẫu phân tích để khảo sát hàm lượng hữu cơ.
    - Phương pháp ngâm chiết mẫu.
    - Phương pháp quang phổ hấp phụ nguyên tử để xác định hàm lượng các kim
    loại trong củ gừng, phương pháp sắc ký khí – khối phổ liên hợp (GC–MS), phương
    pháp sắc ký lỏng – khối phổ liên hợp (LC–MS) nhằm phân tách và xác định thành
    phần định tính và định lượng các hoạt chất chính trong các dịch chiết.
    5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
    5.1. Ý nghĩa khoa học
    Xác định các thông số vật lý, hóa học của các dịch chiết của củ gừng ở
    Quảng Nam, tạo cơ sở nghiên cứu cho các đề tài liên quan đến củ gừng nhằm định
    hướng cho việc quy hoạch và khai thác sau này.
    4
    5.2. Ý nghĩa thực tiễn
    Góp phần cung cấp các thông tin cơ sở trong việc sử dụng củ gừng bằng
    phương pháp truyền thống trong thực tiễn rộng rãi hơn.
    6. Bố cục luận văn
    - Luận văn gồm 51 trang . Trong đó:
    Mở đầu: 3 trang
    Tổng quan: 6 trang
    Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu: 11 trang
    Kết quả và thảo luận: 27 trang
    Kết luận và kiến nghị: 1 trang
    Tài liệu tham khảo: 3 trang
    - Phụ lục: 8 trang.


    CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
    1.1. Khái quát về chi gừng (Zingiber)
    Họ gừng (Zingiberaceae) có nhiều chi và gồm nhiều loài khác nhau. Hầu hết
    các cây thuộc họ gừng phân bố chủ yếu ở các nước Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn
    Độ, Nhật Bản. Võ Văn Chi và Dương Đức Tiến đã tổng kết họ gừng gồm 45 chi và
    hơn 1300 loài, phân bố ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Riêng ở Việt Nam hiện có
    12 chi và 61 loài [1, 2, 14].
    Chi gừng (Zingiber) gồm khoảng 100 loài, phân bố chủ yếu ở các khu vực
    nhiệt đới châu Á và châu Úc. Trung tâm phong phú và đa dạng nhất của chi gừng là
    các nước Đông Nam Á.
    Các cây thuộc chi gừng có đặc điểm thực vật chung là: dạng cây thảo sống
    nhiều năm, cao 0,5-1,5m. Thân rễ phân nhánh nhiều, tạo thành ―củ‖ nằm ngang trên
    mặt đất. Thịt ―củ‖ nạc, thơm và có vị cay, đắng. Lá mọc so le theo hai phía đối
    xứng trên thân, phiến lá hình thuôn, cuống lá rất ngắn hoặc hầu như không có, lá có
    mùi thơm nhẹ. Cụm hoa mọc từ thân rễ, các hoa mọc sít nhau và mỗi hoa được bao
    bởi một lá bắc sắp xếp như dạng vảy cá từ dưới lên trên, lúc đầu hoa có màu xanh
    sau chuyển sang màu vàng, đỏ nhạt hoặc màu đỏ. Cánh hoa hình ống mảnh, màu
    trắng, vàng hoặc hồng. Bao phấn thường có dạng hình ống bao lấy vòi nhụy [2].
    Ở Việt Nam, Phạm Hoàng Hộ đã thống kê chi gừng gồm 11 loài [8, 11].
    1. Gừng ( Zingiber offcinale Roscoe)
    2. Gừng lá nhọn ( Zingiber acuminatum Valeton)
    3. Gừng Nam bộ ( Zingiber cochinchinnensis Gagn)
    4. Gừng Eberhardt ( Zingiber eberhardtii Gagn)
    5. Gừng lúa ( Zingiber gramineum B1)
    6. Gừng một lá ( Zingiber monophylum Gagn)
    7. Gừng boc-da ( Zingiber pellitum Gagn)
    8. Gừng tía ( Zingiber montanum )
    9. Gừng đỏ ( Zingiber rubens Roxb)
    10. Gừng lông hung ( Zingiber rufopilosum Gagn)
    6
    11. Gừng gió ( Zingiber zerumbet (L) J. E. Sm)
    Trong 11 loài này thì có các loài sau là phổ biến
    * Gừng ( Zingiber offcinale Roscoe):
    Tên khoa học: Zingiber officinale Roscoe, Amomum angustifolium Salisb,
    Zingiber Linnaeus. Trong y học cổ truyền, Gừng còn được gọi là sinh khương (thân
    rễ tươi), và can khương (thân rễ khô). [4, 8, 15]
    Cây thảo sống lâu năm, cao khoảng 1m. Thân rễ mọc phình lên thành củ, khi
    già thì có xơ. Lá không cuống, mọc cách nhau, hình mũi mác, dài tới 20cm, rộng
    2cm, bẹ nhẵn, lưỡi bẹ nhỏ dạng màng. Cánh hoa dài khoảng 20cm, mọc từ gốc, có
    nhiều vẩy lợp lên. Cụm hoa dạng trứng, dài 5cm, rộng 2-3cm, lá bắc hình trái xoan,
    màu lục nhạt, có mép vàng. Đài có 3 răng ngắn. Tràng có ống dài gấp đôi đài, có 3
    thùy hẹp nhọn, 1 nhị. Nhị lép không có hoặc tạo thành thùy bên c ủa cánh môi. Cánh
    môi màu vàng, viền thêm màu tía, dài 2cm, rộng 1,5cm, chia thành 3 thùy tròn, các
    thùy bên ngắn hơn. Bầu nhẵn, nhụy lép dạng sợi. Có hoa vào mùa hè và mùa thu
    [17].
    * Gừng gió ( Zingiber zerumbet Sm):
    Cây gừng gió còn có tên gọi là riềng, ngãi xanh, ngãi mặt trời, riềng dại,
    khuhet, phtu, prateal, vong atit (Campuchia), gingembre fou (Pháp), phong khương,
    khinh kèng (Tày) gừng dại, gừng rừng. Tên khoa học Zingber zerumbert sm. Là
    dạng cây thảo, cao 1-1,3m. Thân rễ củ, phân nhánh, màu trắng nhạt, trong ruột màu
    vàng nhạt. Lá mọc sít, gần như không cuống, thuôn dài đầu nhọn, phía trên màu
    xanh lục thẫm, hơi nhạt ở phía dưới, bẹ nhẵn, phía trên có lông. Cán hoa dài 30-60
    cm, phủ đầy vảy, mép có nang lông. Hoa màu vàng, lá đài hình ống dài 2cm [3, 12,
    17].


    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    Tiếng Việt
    [1] Võ Văn Chi (1997), Từ điển cây thuốc Việt Nam, NXB Y học.
    [2] Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến (1987), Phân loại thực vật, thực vật bậc cao,
    NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
    [3] Phạm Thế Chính (2006), Nghiên cứu chọn lọc quy trình điều chế zerumbon từ
    củ gừng gió (Zingiber zerumbet Sm) vùng Tam Đảo cho hiệu suất cao và phân lập
    một số thành phần khác trong củ gừng này, khóa luận tốt nghiệp, Đại học khoa học
    tự nhiên Hà Nội.
    [4] Nguyễn Duy Cương, Nguyễn Hữu Quỳnh (1999), Từ điển bách khoa dược học, ,
    NXB từ điển Bách khoa Hà Nội.
    [5] Lê Văn Đăng (2005), Chuyên đề một số hợp chất thiên nhiên, NXB Đại học
    Quốc gia TPHCM.
    [6] Nguyễn Hữu Đỉnh, Trần Thị Đà (1999), Ứng dụng một số phương pháp phổ
    nghiên cứu cấu trúc phân phân tử, NXB Giáo dục.
    [7] Nguyễn Ngọc Hạnh (2002), Tách chiết và cô lập các hợp chất tự nhiên, Giáo
    trình cao học, NXB ĐHQG TPHCM.
    [8] Phạm Hoàng Hộ (1999), Cây cỏ Việt Nam, quyển 3, NXB trẻ Hà Nội.
    [9] Trần Văn Hơn (2007), nghiên cứu thành phần hóa học và xác định cấu trúc của
    một số chất có trong tinh dầu thân rễ cây Alpinia.sp ở tỉnh Kon Tum, luận văn thạc
    sĩ hóa học, Đà Nẵng.
    [10] Hồng Triệu Hùng(2006), nghiên cứu thành phần hóa học của cây gừng dại
    (Zingiber Cassumunar Roxb.) ở Kon Tum, luận văn thạc sĩ hóa học, Huế.
    [11] Phạm Thanh Kỳ, Nguyễn Thị Tâm, Trần Văn Thanh (2002), Bài giảng dược
    liệu, tập 2, NXB Y học Hà Nội.
    [12] Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học Hà
    Nội.
    [13] Lê Hải Lợi (2009), Nghiên cứu chiết tách và xác định thành phần hóa học
    trong tinh dầu nghệ đen Nghệ An, luận văn thạc sĩ hóa học, Đà Nẵng.
    51
    [14] Vũ Ngọc Lộ (1977), Những cây tinh dầu quý, NXB KHKT Hà Nội.
    [15] Nguyễn Đình Triệu (2001), Các phương pháp phân tích vật lí và hóa lí,
    NXB khoa học và kĩ thuật Hà Nội.
    [16] Nguyễn Trung Hòa (2000), Đông y toàn tập, Nxb Y học, Hà Nội.
    [17] Nguyễn Khang, Phạm Văn Khiển (2001), Khai thác tinh dầu làm thuốc và xuất
    khẩu, Nxb Y học, Hà Nội.
    [18] Nguyễn Kim Phi Phụng (2007), Các phương pháp cô lập hợp chất tự nhiên,
    NXB ĐHQG Tp. HCM.
    [19] Hồ Viết Quý (1998), Các phương pháp phân tích hiện đại và ứng dụng trong
    hóa học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
    [20] Nguyễn Đình Triệu (2001), Các phương pháp phân tích vật lý và hóa lý, NXB
    Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
    Tiếng Anh
    [21] Md. Nazrul Islam Bhuiyan, Jasim Uddin Chowdhury and Jaripa
    Begum(2008), ―Chemical investigation of the leaf and rhizome essential oils of
    Zingiber zerumbet (L.) Smith and Zingiber cassumunar Roxb from Bangladesh‖,
    Medicinal and Aromatic Plants Research Division, BCSIR Laboratories, P.O.
    Chittagong Cantonment, Chittagong 4220, Bangladesh, pp. 9-73.
    [22] Misbah Sultan, Haq Nawaz Bhatti and Zafar Iqbal (2005), ―Chemiscal
    Analysis of Essential oil of Zinger ( Zingiber officinale)‖, Pakistan Journal of
    Biological Sciences, Vol 8 (11), pp. 1576-1578.
    [23] Joy PP., Thomas J., Mathew S., and Skaria BP. (1998). ―Zingiberaceous
    Medicinal and Aromatic Plants ‖, Aromatic and Medicinal Plants Research, Station,
    Odakkali, Asamannoor PO, Kerala, India, pp.13-20.
    [24] Zoqhbi, Maria das GB, Andrade, Eloisa HA (2005), ―JOER Volatiles of the
    Etlingera elatior (Jack) R.M.Smit and Zingiber spectabile Griff ‖ Journal of
    essential Oil, Research to Zingiberaceae Cultivated in the Amazon.
    [25] Dictionary of Natural Products, Version 16:1. Copyright  1982 - 2007
    Chapman & Hall/CRC.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...