Tiến Sĩ Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 29/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận án tiến sĩ năm 2011
    Đề tài: Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ
    Định dạng file word


    Mục lục
    Trang
    Mở đầu 6
    1. Lý do chọn đề tài 6
    2. Lịch sử vấn đề 7
    3. Đối tượng nghiên cứu và nguồn dẫn liệu 16
    4. Nhiệm vụ nghiên cứu 16
    5. Phương pháp nghiên cứu 17
    6. Đóng góp của đề tài 18
    Chương 1: cơ sở lý luận của đề tài 20
    1.1. Một số khái niệm của lý thuyết hội thoại liên quan đến lời độc thoại nội tâm 20
    1.2. Độc thoại nội tâm trong truyện ngắn 24
    1.3. Tiêu chí nhận diện lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ 39
    1.4. Tiểu kết chương 1 58
    Chương 2: Các hành động ngôn ngữ của lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ 60
    2.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ 60
    2.2. Phân biệt hành động ngôn ngữ trong đối thoại và hành động ngôn ngữ trong độc thoại 61
    2.3. Tiêu chí xác định loại hành động ngôn ngữ của lời độc thoại nội tâm nhân vật 71
    2.4. Thống kê, miêu tả các hành động ngôn ngữ của lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ 74
    2.5. Những nhân tố chi phối việc lựa chọn hành động ngôn ngữ của lời độc thoại nội tâm
    97
    2.6. Tiểu kết chương 2 108
    Chương 3: Ngữ nghĩa lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ
    110
    3.1. Khái niệm ngữ nghĩa của lời 110
    3.2. Các nhân tố chi phối ngữ nghĩa lời độc thoại nội tâm 113
    3.3. Các nhóm ngữ nghĩa của lời độc thoại nội tâm 132
    3.4. Tiểu kết chương 3 158
    Chương 4: Vai trò của lời độc thoại nội tâm trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ 160
    4.1. Vai trò biểu hiện tâm lý và tính cách nhân vật trong tính đối thoại của lời độc thoại nội tâm 160
    4.2. Vai trò định hướng hành động nhân vật trong cấu tạo lập luận của lời độc thoại nội tâm 166
    4.3. Vai trò thể hiện phạm vi hiện thực trong tác phẩm qua sắc thái giới tính của lời độc thoại nội tâm 176
    4.4. Vai trò khắc họa phong cách ngôn ngữ tác giả của lời độc thoại nội tâm 191
    4.5. Vai trò thể hiện sự đổi mới thi pháp truyện ngắn của lời độc thoại nội tâm 195
    4.6. Tiểu kết chương 4 200
    Kết luận 203
    Tài liệu tham khảo 207


    Mở đầu
    1. Lý do chọn đề tài
    1.1. Lời nói là khái niệm có ý nghĩa tiền đề, là đối tượng nghiên cứu trung tâm của ngữ dụng học. Không nghiên cứu ngôn ngữ ở dạng tĩnh với những quy luật và cấu trúc cứng nhắc, bất biến, ngữ dụng học chú trọng đến việc sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp, xem xét mối quan hệ giữa ngôn ngữ với những ngữ cảnh và người dùng khác nhau. Hướng tiếp cận này cho phép ngữ dụng học có thể nhận ra những dạng thức, quy luật hành chức sinh động và đa dạng của ngôn ngữ.
    1.2. Khi giao tiếp, lời nói được tổ chức thành hai dạng: lời đối thoại và lời độc thoại nội tâm (ĐTNT). Lời đối thoại luôn thể hiện mối quan hệ tương tác giữa người nói và người nghe trực tiếp, hiện diện trực quan trong quá trình nói năng. Do vậy, nó là nguồn tư liệu quan trọng để ngữ dụng học tìm ra những nguyên tắc, đặc tính hành chức của ngôn ngữ. Trong đời sống thực, lời ĐTNT thường diễn ra ngầm ẩn, không hướng đến người nghe nào khác ngoài chính bản thân chủ thể độc thoại. Nó là dạng lời thoại được người nói sử dụng để giao tiếp với chính mình - người nghe đặc biệt. Những đặc điểm này khiến việc nghiên cứu lời ĐTNT từ lý thuyết hội thoại hầu như còn bỏ trống.
    1.3. Lời ĐTNT tồn tại khá phổ biến trong thực tế sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp, nhưng nó chỉ hiện diện rõ ràng, cụ thể ở tác phẩm nghệ thuật (kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn). Sự tái hiện ĐTNT vào tác phẩm nghệ thuật tất yếu không thể đảm bảo tuyệt đối tính khách quan, nguyên bản của dạng lời nói này nhưng trên một mức độ nhất định, các nhà văn luôn phải tôn trọng các đặc tính bản chất, các nguyên tắc nảy sinh và sự hành chức của nó. Vì thế, khi chưa có điều kiện vật chất hoá lời ĐTNT ở đời sống thực, lời ĐTNT trong tác phẩm nghệ thuật là một nguồn tư liệu đủ tin cậy cho phép việc nghiên cứu về nó có thể đạt được những kết quả cơ bản bước đầu. Đồng thời, tìm hiểu dạng lời nói này trong tác phẩm văn học cũng là tìm hiểu cách thức tổ chức ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn, góp phần nhận diện phong cách ngôn ngữ tác giả.
    1.4. Sau 1975, văn học Việt Nam chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, có những chuyển đổi mạnh mẽ về tư tưởng và phương pháp sáng tác. Các tác phẩm tập trung thể hiện cuộc sống của con người cá nhân, những hậu quả mà chiến tranh để lại trong thời bình. Trong sự đổi mới đó, thể loại truyện ngắn đã đạt được nhiều thành quả nhất.
    Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiên phong của tiến trình đổi mới văn học. Truyện ngắn của ông, ngay từ những năm đầu của thập niên 80 (thế kỷ 20), đã bộc lộ rõ khát vọng khám phá đời sống nội tâm con người trong thời đại mới, đặc biệt là người lính trở về sau chiến tranh. Lời ĐTNT nhân vật là một phương tiện ngôn ngữ được ông sử dụng rất hiệu quả để phản ánh phạm vi hiện thực này, góp phần tạo nên dấu ấn phong cách độc đáo của tác giả.
    So với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Thị Thu Huệ là những nhà văn thuộc về thế hệ sau. Trong những năm 90 (thế kỷ 20), đây là hai tác giả truyện ngắn nổi tiếng. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất sắc sảo, thể hiện nổi bật trong lời thoại nhân vật. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ giàu nữ tính, phù hợp với việc tái hiện cuộc sống tâm hồn, tình cảm của các nhân vật nữ. Khảo sát lời ĐTNT nhân vật trong truyện ngắn của họ sẽ cho phép sự nghiên cứu về dạng lời nói này trở nên toàn diện, đầy đủ hơn.
    Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra nói trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ.
    2. Lịch sử vấn đề
    2.1. Những kết quả nghiên cứu có tính chất tiền đề về độc thoại nội tâm (monologue intérieur)
    Mặc dù độc thoại xuất hiện từ khá sớm (gắn liền với sự ra đời của kịch - một loại hình nghệ thuật sân khấu) nhưng ĐTNT chỉ bắt đầu được chú ý vào những năm cuối thế kỷ 18 và thực sự được tập trung nghiên cứu từ đầu thế kỷ 20. Những tiểu thuyết phương Tây hiện đại như: Ulysse (James Joyce); Đi tìm thời gian đã mất (M. Proust); Thời gian khổ (Dickens) đã sử dụng ĐTNT với tư cách là một “phương tiện” đã tới kịp vừa may để diễn đạt căn bệnh mới của thế kỷ trong tiểu thuyết mới [25, tr.69]. Sự xuất hiện của ĐTNT một cách dày đặc và mới lạ trong tiểu thuyết hiện đại đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu ở ngoài nước cũng như trong nước.
    2.1.1. Những kết quả nghiên cứu về độc thoại nội tâm ở ngoài nước
    Vấn đề đầu tiên mà các nhà nghiên cứu ở nước ngoài đặt ra là xác định tư cách tồn tại của ĐTNT trong tiểu thuyết và truyện ngắn. Có thể khái quát kết quả nghiên cứu về vấn đề này thành hai xu hướng cơ bản: ĐTNT với tư cách là một kỹ thuật, một thủ pháp của nhà văn trong xây dựng tác phẩm và ĐTNT với tư cách là một dạng lời thoại, được nhân vật sử dụng để thực hiện sự giao tiếp.
    Tiêu biểu cho xu hướng thứ nhất là quan điểm của hai tác giả Wiliam Flin Thrall và Mario Klarer. Trong cuốn A handbook to literature (Cẩm nang văn học) tác giả Wiliam Flin Thrall nhìn nhận ĐTNT chỉ là một kỹ thuật, trong đó, luồng suy nghĩ của một nhân vật trong một tiểu thuyết hoặc truyện ngắn được bộc lộ. Nó ghi lại trải nghiệm cảm xúc bên trong của nhân vật trên từng cấp độ hoặc là sự phối hợp nhiều cấp độ tình cảm. Theo ông, ĐTNT không phải là lời thoại mà là một hình thức phi thoại (non - verbalize), được dùng để diễn đạt cảm giác hoặc tình cảm không diễn tả bằng lời [131, tr.243]. Thống nhất với quan điểm này, Mario Klarer cũng khẳng định ĐTNT là một kỹ thuật miêu tả trong đó một nhân vật được đặc trưng hoá riêng biệt bằng suy nghĩ của chính nhân vật đó mà không có thêm bất cứ lời bình luận nào. Nó bị chi phối bởi tâm lý và liên quan đến luồng suy nghĩ của nhân vật [127, tr.142]. Như vậy, ĐTNT đã được nhìn nhận như một cách thức, một thủ pháp của nhà văn để biểu đạt suy nghĩ, tình cảm, cảm giác bên trong, ngầm ẩn của nhân vật. ĐTNT không được xem là dạng lời thoại do nhân vật trực tiếp nói ra để thực hiện sự giao tiếp trong một ngữ cảnh nhất định.
    Tiêu biểu cho xu hướng thứ hai là cách nhìn nhận của nhà ngôn ngữ học V.B. Kasevich trong giáo trình Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương. Khi nói về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, ông đã nhận ra sự tồn tại của những kiểu tư duy mà ở đó hình thức lời nói được sử dụng nhưng dường như đã bị rút gọn: nó chỉ giữ lại một số những yếu tố quan trọng nhất, còn tất cả những cái gì là “tất nhiên” thì đều không được thể hiện bằng lời nói [51, tr.18]. Từ đó, dẫn đến một thực tế thường gặp trong đối thoại là ở những tình huống khá quen thuộc thì những cái được


    Tài liệu tham khảo

    A. Bằng tiếng Việt
    1. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du.
    2. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đôtxtôiepxki, Nxb Giáo dục.
    3. Diệp Quang Ban (2001), Ngữ pháp tiếng Việt, tập II, Nxb Giáo dục.
    4. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1996), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
    5. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Nxb Giáo dục.
    6. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975, khảo sát trên nét lớn, Luận án Tiến sỹ Ngữ văn, Hà Nội.
    7. Nguyễn Thị Bình (2004), “Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu - một thành công đáng chú ý của văn xuôi sau 1975”, Tự sự học, NXB ĐHSP, Hà Nội.
    8. Nguyễn Huy Cẩn (2002), “Về phương hướng nghiên cứu giao tiếp trong tâm lý - ngôn ngữ học”, Ngôn ngữ văn hoá giao tiếp, Trung tâm Khoa học Xã hội và nhân văn Quốc gia, Viện Thông tin Khoa học xã hội.
    9. W.L. Chafe (1999), ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb Giáo dục.
    10. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1990), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
    11. Phạm Vĩnh Cư (2004), “Về những yếu tố tiểu thuyết trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu”, Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
    12. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
    13. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
    14. Đỗ Hữu Châu (2000), “Tìm hiểu văn hoá qua ngôn ngữ”, Ngôn ngữ, (10).
    15. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học, tập II (Ngữ dụng học), Nxb Giáo dục.
    16. Đỗ Hữu Châu (2003), Cơ sở ngữ dụng học, tập I, Nxb Đại học sư phạm.
    17. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (1995), Đại cương ngôn ngữ học, tập II, Nxb Giáo dục.
    18. Nguyễn Đức Dân (1987), Lôgic - Ngữ nghĩa - Cú pháp, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
    19. Nguyễn Đức Dân (2000), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục.
    20. Trương Thị Diễm (2002), Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc trong giao tiếp tiếng Việt, Luận án tiến sỹ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.
    21. Trương Dĩnh (2004), “Tiếp nhận sự kiện trong văn tự sự như một tín hiệu tạo nghĩa”, Tự sự học, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
    22. Đinh Trí Dũng (2005), Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, Trường viết văn Nguyễn Du.
    23. Phạm Vũ Dũng (1996), Văn hoá giao tiếp, Viện Văn hoá - Bộ Văn hoá thông tin, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
    24. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hoá đến văn hoá học, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
    25. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
    26. Đặng Anh Đào (2004), “Sự phát triển nghệ thuật tự sự ở Việt Nam - một vài hiện tượng đáng lưu ý”, Tự sự học, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
    27. Hữu Đạt (2000), Văn hoá và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
    28. I.R. Galperin (1987), Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu Ngôn ngữ học (Hoàng Lộc dịch), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
    29. Nguyễn Thiện Giáp (2002), “Ngữ cảnh và ý nghĩa trong giao tiếp ngôn ngữ”, Ngôn ngữ văn hoá giao tiếp, Trung tâm Khoa học Xã hội nhân văn Quốc gia, Viện Thông tin khoa học xã hội.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...