Luận Văn Khảo sát hiện trạng nuôi cá lóc trong vèo

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài nghiên cứu được thực hiện tại xã Tân Trung huyện Phú Tân tỉnh
    An Giang từ tháng 9 năm 2004 đến tháng 4 năm 2005 nhằm tổng kết và theo dõi
    mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ. Kết quả điều tra cho thấy nguồn lực
    lao động trong nông hộ tương đối ít, số người trên nông hộ trung bình nhỏ hơn
    hoặc bằng 5, chiếm 86,7%, có độ tuổi lao động chính (18-60 tuổi) chiếm 76% và
    có trình độ học vấn đa phần là thấp (55% là cấp I và 38% là cấp II). Nguồn đất
    đai của các hộ tương đối ít, 43,33% nông hộ có diện tích đất canh tác lúa, còn lại
    56,67% nông hộ chỉ có diện tích đất vừa đủ để ở và nuôi cá. Diện tích ao và thể
    tích vèo để nuôi cá lóc trung bình là 884 m2/hộ và 89,41m3/hộ, tương ứng.
    Nguồn thông tin phục vụ cho hoạt động nuôi cá lóc trong vèo được tiếp nhận chủ
    yếu từ các chương trình truyền hình (26%). Số năm kinh nghiệm nuôi cá lóc
    trong vèo của người dân trung bình là 5,34 năm. Nguồn vốn để phục vụ cho việc
    nuôi cá lóc trong vèo đa phần là kết hợp giữa vốn nhà và vốn vay tư nhân
    (87%)với lãi suất cao. Lý do chủ yếu mà nông dân áp dụng mô hình nuôi cá lóc
    trong vèo trong mùa lũ khá đa dạng, trong đó tạo thêm thu nhập chiếm 33%,
    nguồn nước tốt hơn chiếm 30%, dễ tìm cá mồi chiếm 17% .
    Giá thành sản xuất ra 1,0 kg cá lóc thịt tương đối cao (18.420 đồng/kg) do hệ số
    tiêu tốn thức ăn khá cao (4,71) trong khi đó giá bán của cá lóc thịt là 19.370
    đồng/kg. Lợi nhuận mà nông dân thu được sau mỗi vụ nuôi là 29.190 đồng/ m³
    vèo (tương đương 2,3 triệu /hộ) và tỷ lời/vốn là 0,04, và nếu không kể công lao
    động gia đình thì thu nhập trung bình/nông hộ đạt 4,57 triệu/hộ (tỷ lệ lời/vốn là
    0,09). Sau 2-12 năm nuôi cá lóc trong vèo, 100% nông dân trong cuộc điều tra
    cho rằng đời sống của họ thay đổi theo chiều hướng tăng do có lợi nhuận cao và
    thu nhập thường xuyên.
    Có 3 yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công của mô hình là vốn
    để mua thức ăn cho cá, chiếm 79%, kế đến là thị trường đầu ra, chiếm 17% và
    còn lại là chất lượng thức ăn, chiếm 4%.
    i
    MỤC LỤC
    -----оOо-----
    Nội dung Trang
    LỜI CẢM TẠ i
    TÓM LƯỢC .ii
    MỤC LỤC .iii
    DANH SÁCH BẢNG .vii
    Bảng số vii
    Tựa bảng vii
    PHỤ CHƯƠNG . pc-1 .viii
    DANH SÁCH HÌNH ix
    Chương 1 GIỚI THIỆU .1
    Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
    2.1. Sự phân loại và phân bố của cá lóc 2
    2.1.1. Phân loại 2
    2.1.2. Sự phân bố của cá lóc . 2
    2.2. Một số đặc điểm của cá lóc 2
    2.2.1. Đặc điểm hình thái .2
    2.2.2. Đặc điểm dinh dưỡng .3
    2.2.3. Đặc điểm sinh trưởng .3
    Giai đoạn nhỏ, cá lóc chủ yếu tăng trưởng về chiều dài, cá càng lớn thì sự tăng
    trọng ngày càng nhanh. Trong tự nhiên, sức lớn của cá không đều, phụ thuộc vào
    điều kiện thức ăn sẵn có trong thuỷ vực. Trong điều kiện nuôi có thức ăn và chăm
    sóc tốt cá có thể lớn từ 0,5 đến 0,8 kg/năm, đạt tỷ lệ sống cao và ổn định (Phạm Văn
    Khánh, 2000). Sau 1 năm tuổi, thân cá lóc dài 38,5-40 cm, nặng 625-1.395 g, cá 3
    tuổi thân dài 45-59 cm, nặng 1.467-2.031 g , con đực và con cái chênh lệch lớn về
    trọng lượng (Minh Dung, 2004). 3
    2.2.4. Đặc điểm sinh sản 3
    2.3. Phương pháp nuôi cá lóc thịt 4
    2.3.1. Nuôi trong ao đất . 4
    2.3.2. Nuôi cá lóc kết hợp trong ruộng lúa 4
    Diện tích vuông ruộng nuôi cá lóc từ 0,5-3 ha, phải có mương và bờ bao xung
    quanh. Chiều dài mương bằng chiều dài bờ bao, rộng 1,5-2m, sâu 0,8-1m. Phải có
    hệ thống cống bọng cấp thoát nước khi cần thiết. Mật độ thả nuôi là 0,5-1 con/m2
    và thời gian nuôi khoảng 6-7 tháng. Trong mô hình này để chủ động được nguồn
    thức ăn cho cá lóc người ta thường thả nuôi kết hợp một số loài cá khác như: cá mè
    vinh để nâng cao năng suất của ruộng nuôi. Việc cho cá ăn có thể là nguồn cá tạp
    tự nhiên trong mùa lũ, hay có thể bổ sung thêm thức ăn chế biến (Dương Tấn Lộc,
    2001; Đại học An Giang, 2003). 4
    i
    2.3.2. Nuôi cá lóc ở rừng . 5
    Hai lâm trường Mùa Xuân, Phương Ninh ở Cần Thơ trước đây có khoảng 1000 đìa
    nhử cá tự nhiên, nay đưa diện tích rừng vào nuôi cá gần 4000 ha. Rừng U Minh,
    khu Tràm Chim, các rừng nước ngọt, sông cụt, nước kém lưu thông là nơi nuôi và
    dưỡng cá lóc tự nhiên. Nơi đây có điều kiện sống thích hợp cho cá lóc, thức ăn tự
    nhiên rất phong phú có ở tại chỗ. Có thể nuôi cá 2-3 năm, cá đạt vài kg mỗi con
    (Dương Tấn Lộc, 2001) .5
    2.3.4. Nuôi cá lóc trong vèo (mùng lưới) .6
    Chương 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 8
    3.1. Vật liệu 8
    3.2. Phương pháp nghiên cứu 8
    3.2.1. Thể thức thống kê 8
    Phỏng vấn điều tra nông hộ và chọn mẫu điều tra theo chủ đích 8
    3.2.2 Phương pháp tiến hành . 8
    3.2.2.1. Theo dõi mô hình nuôi cá lóc trong vèo . 8
    3.2.2.2. Tổng kết mô hình nuôi cá lóc trong vèo . 8
    3.2.3. Chỉ tiêu theo dõi .9
    3.2.3.1. Theo dõi 3 nông dân đang nuôi cá lóc trong vèo với những chỉ tiêu cụ
    thể như sau 9
    3.2.3.2. Tổng kết mô hình nuôi cá lóc trong vèo . 10
    3.3. Phân tích thống kê: .10
    Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 11
    4.2. Thông tin nông hộ 12
    4.2.1. Nguồn nhân lực 12
    4.2.2. Đất đai 13
    Khi phỏng vấn về nguồn thông tin phục vụ cho hoạt động nuôi cá lóc trong vèo, thì
    nông dân ở vùng nghiên cứu cho rằng nguồn thông tin trên thường xuyên được tiếp
    cận chủ yếu từ các nguồn: chương trình truyền hình (tivi), chiếm tỷ lệ 26%, tiếp theo
    là đài phát thanh (radio) chiếm tỷ lệ 20% và giữa các nông dân nuôi cá lóc (18%).
    Ngoài ra, họ còn tiếp nhận những thông tin từ nhiều nguồn khác nữa như: sách
    báo, bà con thân thuộc, cán bộ kỹ thuật viên của huyện hoặc xã (Bảng 4.3). Điều
    này cho thấy người dân tại địa bàn nghiên cứu rất quan tâm đến những tiến bộ về
    kỹ thuật nuôi cá và thông tin phục vụ cho nuôi cá lóc rất đa dạng. Tuy nhiên các
    nguồn thông tin trên còn mang tính chấp giá, bị động và chưa được sắp xếp, hệ
    thống hóa hoàn chỉnh. Để phục vụ tốt hơn, thiết nghĩ cần phải có một hình thức tiếp
    nhận và chuyển giao thông tin giữa người nuôi cá và cơ quan khoa học cũng như
    thị trường, . dễ dàng hơn như các mô hình câu lạc bộ khuyến nông, hợp tác xã kiểu
    mới, 14
    4.3. Hoạt động nuôi cá trong mùa lũ .15
    4.3.1. Mùa vụ nuôi cá lóc trong vèo 15
    Đa phần những hộ được phỏng vấn thì nuôi cá lóc trong vèo quanh năm. Tận dụng
    ao sẵn có, họ thường nuôi 3 vụ cá lóc trên một năm: (1) vụ mùa mưa (từ tháng 4 đến
    i
    tháng 8 dl), (2) vụ mùa lũ (từ tháng 7-8 đến tháng 11-12 dl) và (3) vụ mùa nghịch
    (từ tháng 12 đến tháng 4 dl). Trong năm 2004, kết quả điều tra cho thấy phần đông
    người dân đã chọn thời điểm thả cá sớm vào đầu tháng 6, chiếm tỷ lệ 86,67% (Bảng
    4) và cá được thu hoạch sớm vào đầu tháng 10, chiếm tỷ lệ 76,67% do giá cá thịt
    cao. Các hộ còn lại (23,33%) thì neo lại chờ giá cao hơn. Điều này cũng tương tự
    như nhận định của Dương Tấn Lộc (2001) theo ông, ở ĐBSCL mùa lũ tràn về từ
    tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, do đó người dân nuôi cá lóc cần có nguồn giống
    sớm, bắt đầu nuôi từ tháng 5 đến tháng 8 cá được 100g/con. Giai đoạn này cá ăn
    mạnh dựa vào nguồn thức ăn tự nhiên có sẵn và nước lũ lớn thì hiệu quả nuôi sẽ
    cao . 15
    4.3.2. Lý do nông dân áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ 16
    4.3.4. Kỹ thuật nuôi . 17
    4.3.4.1. Phương pháp cải tạo ao .17
    4.3.4.2. Phương pháp chuẩn bị vèo nuôi 19
    4.3.4.3. Cách đặt vèo và phương pháp cấp nước . 20
    4.3.4.4. Nguồn cá giống, mật độ thả và kích cỡ cá thả nuôi .21
    4.3.4.5. Nguồn thức ăn .22
    Do nguồn thức ăn không ổn định nên muốn dự trữ thức ăn lại cho cá lóc thì 56,67%
    số người nuôi phải mua thức ăn cho cá ở chợ huyện (Bảng 9). Người nuôi cho rằng
    khi mua cá mồi ở huyện thì giá tương đối rẻ hơn so với ở xã. Do thiếu phương tiện
    vận chuyển và dự trữ, 40% nông dân còn lại phải mua thức ăn ở phạm vi xã (chủ
    yếu là cua, ốc và cá tạp mà người dân trong xã khai thác được và bán lại cho những
    người nuôi cá lóc ở địa phương). Nhưng lượng thức ăn này giá cả không ổn định và
    bấp bênh nên chủ yếu là người dân phải mua cá mồi ở huyện nơi đây tập trung
    nhiều trại vựa cá mồi lớn và ổn định. Nếu so sánh với xã Vĩnh Hội Đông của huyện
    An Phú thì ngoài việc mua cá mồi ở phạm vi xã hoặc huyện thì người dân còn mua
    cá ở phạm vi tỉnh nhiều hơn, do phải đi mua cá mồi xa nên làm tăng thêm chi phí
    vận hành của người nuôi, thậm chí do điều kiện tự nhiên giáp với nước bạn
    Campuchia nên một số nông dân ở đây còn sang Campuchia để mua cá mồi. Qua
    điều này cho thấy nguồn cung cấp thức ăn ở xã Tân Trung tương đối thuận lợi hơn
    so với nơi khác, người dân không phải đi xa để mua cá mồi, góp phần giảm chi phí
    vận hành và tăng lợi nhuận sau mỗi vụ nuôi cá lóc trong vèo. . 23
    4.3.4.6. Phương pháp cho cá lóc ăn của người dân 23
    4.3.4.8. Quản lý dịch bệnh 25
    4.3.5. Các chỉ tiêu năng suất và sinh khối lúc thu hoạch của cá lóc trong mô hình
    nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ 2004 26
    4.3.6. Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ năm 2004
    . 29
    4.4. Đời sống của nông dân sau khi áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo .33
    4.5. Các yếu tố quyết định thành công của mô hình nuôi cá lóc trong vèo màu lũ
    năm 2004 35
    4.6. Những khó khăn trở ngại của mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ
    năm 2004 36
    Chương 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ . 40
    v
    5.1. Kết luận .40
    5.2. Đề nghị 41
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 43
    PHỤ CHƯƠNG . 46
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...