Luận Văn Khảo sát chính sách dân số thế giới và việt nam (108 trang)

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1. Mặc dù sự phát triển nhanh chóng dân số làm trầm trọng thêm khó khăn kinh tế – xã hội và môi trường của các nước nghèo nhưng chỉ riêng “sức ép” này chưa đủ để các Chính phủ tác động hoặc tác động tích cực đến quá tình dân số nhằm điều chỉnh toàn bộ tình trạng dân số nói chung và hạ thấp mức sinh nói riêng.
    Sự giúp đỡ của Quỹ dân số LHQ là yếu tố bên ngoài và hoạt động của các NGO, của các nhà hoạt động chính trị, khoa học và xã hội trong nước là các điều kiện quan trọng thúc đẩy việc xây dựng và thực hiện chính sách dân số quốc gia.
    Vì vậy, cần đẩy mạnh việc nắm bắt, phân tích, dự báo tình trạng dân số và tác động của nó đến sự phát triển, mở rộng quan hệ quốc tế để giúp Nhà nước có được chính sách dân số hợp lý, kịp thời trong từng giai đoạn.
    2. Mục tiêu của chính sách dân số ở các nước đang phát triển cho đến nay tập trung vào việc giảm sinh. Quá nhấn mạnh khía cạnh này, mục tiêu của chính sách dân số đã không chú ý đến vấn đề cân bằng giới và ít đề cập vấn đề chất lượng dân cư thông qua việc hạn chế nguy cơ mắc bệnh hiểm nghèo, dị dạng cho đời sau. Hiện nay, một số nước đã phải chịu hậu quả này và đã có biện pháp khắc phục, dù muộn.
    Chính sách dân số ở nước ta trong thời gian tới phải chú ý đến cân bằng giới tính khi sinh cũng như trong phân bố dân cư. Cần đề cập nội dung về chất lượng dân số thông qua quy định điều kiện kết hôn, ly hôn, đình sản, sử dụng các BPTT khác và nạo phá thai
    3. Sự xung đột giữa quyền tự quyết của cá nhân, mục tiêu của Nhà nước và giáo lý trong chính sách dân số là không tránh khỏi. Việc giải quyết xung đột này không thể giống nhau giữa các nước giàu và nước nghèo, giữa các nền văn hoá khác nhau và trong điều kiện tài nguyên khác nhau.
    Không thể chỉ nhấn mạnh và chỉ biết quyền của cá nhân mà phải cần đối với trách nhiệm đối với gia đình, cộng đồng và xã hội. Do vậy, thưởng và phạt mang tính giáo dục để đạt được mục tiêu là hoàn toàn cần thiết.
    4. Khi đã đạt được TFR = 2,7 ở mức TFR của nước ta vào năm 1996, nhiều nước trong đó có cả nước lớn như Trung Quốc và đảo nhỏ như Hồng Kông, nước đã phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Canada và nước nghèo đang phát triển như ThaLan, Indonesia, nước nghèo định hướng XHCN và các nước TBCN đều đã đạt được mức sinh thay thế, chỉ sau 5 –6 năm, tối đa là 10 năm.
    Vì vậy, mục tiêu đạt mức sinh thay thế vào năm 2005 của Việt Nam là có cơ sở thực tiễn và chương trình quốc gia nên nhấn mạnh thời hạn này, thậm chí có thể rút ngắn hơn nữa.
    5. Bộ máy tổ chức làm công tác DS – KHHGĐ ở nước ta hiện nay thuộc mô hình của các nước lớn, sức ép dân số lên các vấn đề KT-MT mạnh mẽ và theo chiều hướng tiêu cực như ở Trung Quốc, Paskistan, Indonesia có thể coi là hợp lý.
    Tuy nhiên, cần hỗ trợ phát triển và có mối liên hệ chặt chẽ hơn nữa với NGOs. Đây là bài học quý của hầu hết các nước Châu Á, thể hiện rõ KHHGĐ là “của dân, do dân và vì dân”
    6. KHHGĐ nói riêng và toàn bộ vấn đề dân số nói chung liên quan đến sức khoẻ, tính mạng của từng người, hơn nữa ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Do vậy, KHHGĐ phải có cơ sở pháp lý đầy đủ và cụ thể.
    Ở nước ta, cơ sở pháp lý của KHHGĐ mới dừng ở mức chung thấp là Hiến pháp. Luật KHHGĐ chưa có, các văn bản dưới Luật thì còn tình trạng thiếu thống nhất, chưa đủ cụ thể để cơ sở triển khai dễ dàng, nên đã gây ra tình trạng bất công bằng trong thưởng phạt, chất lượng dịch vụ, hiệu quả dịch vụ chưa cao. Vì vậy, cần xây dựng các Luật cụ thể hơn, như các nước có Luật đình sản, Luật nạo phá thai và các văn bản có tính pháp lý cao nhằm xử lý tình trạng vi phạm chính sách dân số, làm cơ sở pháp lý vững chắc cho chương trình.
    I – E – C cung cấp dịch vụ, bảo cân đối giới tính Điều này đặc biệt khi mục tiêu 1 đến 2 con được thực hiện, trong hoàn cảnh vẫn còn tập quán “ưa thích con trai” và điều kiện kỹ thuật cho phép biết trước giới tính của thai nhi. Cần bổ sung ngay điều luật cấm dịch vụ xác định giới tính của thai nhi và nạo phá thai vì lựa chọn giới tính của con.
    Luật pháp cũng cần góp phần ngăn chặn sự ra đời của quái thai, những đứa trẻ dị dạng. Điều này có nghĩa là kết hôn, mang thai được kiểm soát chặt chẽ đối với một số người mắc bệnh hiểm nghèo và tăng cường trách nhiệm tư vấn cho nhóm đói tượng này.
    8. Do hoàn cảnh kinh tế – xã hội – môi trường – dân số ở các địa phương rất khác nhau, Nhà nước cần cho phép một số tỉnh/thành phố ban hành các chính sách riêng đề cập những vấn đề mới, nóng bỏng liên quan đến vấn đê giới/chất lượng dân số của địa phương. Những chính sách như vậy được thay đổi một cách linh hoạt.
    9. Sự suy giảm mức sinh không phải chỉ diễn ra theo một chiều. Mức sinh có thể bùng lên khi chính sách nới lỏng (kinh nghiệm của Trung Quốc trong những năm 1980 - 1981). Vì vậy, cần duy trì sức mạnh của chính sách cho tới khi mức sinh thay thế đạt được một cách bền vững. Kèm theo đó là mức đầu tư không giảm sút ngay cả khi mức sinh thay thế đã đạt được.
    10. Chính sách dân số thành công chỉ trên cơ sở địa vị phụ nữ được cải thiện. Chính sách và Luật pháp phải hỗ trợ phụ nữ có được sự bình đẳng với nam giới trong giáo dục, đào tạo, việc làm, bảo hiểm xã hội Trong lĩnh vực dân số cần đảm bảo quyền lựa chọn cho phụ nữ trong kết hôn/ly hôn/ tránh đẻ/thụ tinh nhân tạo/hỗ trợ mang thai và sinh đẻ, nhận nuôi con nuôi và điều trị vô sinh
    Những kinh nghiệm chính sách và Luật pháp của nước ngoài trong lĩnh vực dân số rất phong phú và khá đầy đủ. Học tập kinh nghiệm nước ngoài một cách chọn lọc chắc chắn sẽ góp phần hoàn thiện luật pháp và chính sách dân số của nước ta.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...