Tài liệu Khai thác văn hoá H Mông của công ty CP Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội để phát triển du lịch ở Sa

Thảo luận trong 'Tâm Lý Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Khai thác văn hoá H’Mông của công ty CP Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội để phát triển du lịch ở Sa Pa - Lào Cai

    LỜI MỞ ĐẦU

    Công ty CP Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội (tiền thân là công ty phục vụ Đường sắt) là một trong những công ty dịch vụ đầu tiên ở Hà Nội. Trước đây công ty chỉ làm nhiệm vụ phục vụ ăn ở cho cán bộ công nhân viên Đường sắt và ăn uống trên tàu, dưới ga cho hành khách.
    Từ năm 1989 khi cơ chế bao cấp bị xoá bỏ th́ công ty đă được đổi tên thành Công ty Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội và Trung tâm Điều hành - Hướng dẫn Du lịch cũng bắt đầu được xây dựng và dần đi vào hoạt động.
    Với lợi thế là có các tuyến tàu hoả Thống Nhất, Bắc Nam, tàu liên vận quốc tế đi qua Bắc Kinh (Trung Quốc) đến Moscow (Nga) nên công ty đă thu hút được rất nhiều du khách. Đặc biệt tuyến du lịch Hà Nội - Lào Cai - Sa Pa - Bắc Hà - Hà Khẩu (Trung Quốc) được công ty tập trung khai thác có hiệu quả rất cao với 2 lư do:
    · Thứ nhất là tuyến đường bộ Hà Nội - Lào Cai dài hơn 300km qua vùng trung du đồi núi trập trùng, chất lượng đường rất xấu nên khách du lịch ít chọn v́ mệt mỏi, dễ bị say xe và tốn kém thời gian (khi đi ban ngày) thậm chí sợ không đảm bảo an toàn (khi đi ban đêm). Chính v́ điều đó, công ty đă đầu tư vốn đóng 4 toa tàu khách du lịch đẹp để vận chuyển, phục vụ khách trên tuyến này.
    · Thứ hai là lănh đạo và hướng dẫn viên của công ty rất am hiểu lịch sử, văn hoá của các dân tộc ở Lào Cai nên đă tập trung nghiên cứu, xây dựng các tour du lịch nghỉ dưỡng kết hợp t́m hiểu lịch sử văn hoá của các dân tộc thiểu số ít người ở vùng này.
    Nhờ có chiến lược đúng đắn nên trong những năm qua các tour du lịch văn hoá của công ty đến Lào Cai nói chung, đến Sapa và các bản làng H’Mông đă và đang là thế mạnh của công ty. Và thực tế cho thấy hiện nay các tour du lịch lên Sa Pa - Lào Cai ngày càng thu hút được nhiều khách trong và ngoài nước.
    Qua một thời gian thực tập ở Công ty, em đă có cơ hội t́m hiểu, học tập thêm được nhiều điều về thực tiễn kinh doanh mà chưa có trong sách vở khi c̣n ngồi trên ghế nhà trường.
    Em đă xin phép Giám đốc công ty - TS. Trần Tất Chủng cho đi Sa Pa - Lào Cai một tuần, tự ḿnh t́m hiểu văn hoá của người H’Mông ở vùng cao này nhằm củng cố, mở rộng thêm kiến thức, hy vọng góp phần để mảng kinh doanh du lịch này ngày càng phát triển hơn. Sau khi kết thúc chuyến đi khảo sát thực tế ở Lào Cai - Sa Pa, em đă lựa chọn đề tài “Khai thác văn hoá H’Mông của công ty CP Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội để phát triển du lịch ở Sa Pa - Lào Cai” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
    Trong suốt quá tŕnh thực tập tại công ty em đă nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận t́nh của cán bộ công nhân viên và thầy giáo để em hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.
    Em xin chân thành cảm ơn!

    Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2009
    Sinh viên

    Hoàng Thị Minh


    CHƯƠNG I
    CƠ SỞ LƯ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ DU LỊCH VĂN HÓA


    I. Du lịch và các tài nguyên Du lịch

    1.1. Khái niệm du lịch

    Du lịch là một trong những nhu cầu tất yếu khách quan của con người từ thời cổ đại, bất luận nam nữ, trẻ nhỏ, người già Ở thời ḱ này, hiện tượng du lịch dễ nhận biết đó là du lịch tôn giáo, hành hương tới các thánh địa, chùa chiền Đến thời trung đại, du lịch tiếp tục phát triển, ngoài hành hương tôn giáo bắt đầu xuất hiện du lịch công vụ, du lịch thăm quan với những cuộc du ngoạn của các hầu tước, bá tước, của các kỵ sĩ từ lănh địa này đến lănh địa khác, của những thương nhân đi t́m con đường tơ lụa, hồ tiêu Ở Việt Nam thời trung đại cũng đă có những cuộc du ngoạn của Trương Hán Siêu, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, chúa Trịnh Sâm, Những bài thơ, áng văn ghi lại những nơi họ đi qua là một minh chứng. Đó là những hiện tượng có tính du lịch - dù khái niệm du lịch lúc bấy giờ chưa xuất hiện.
    Ngày nay cơ hội đi du lịch là một quyền cơ bản của con người chứ không c̣n là đặc quyền của tầng lớp giàu có nữa. Trong sự phát triển không ngừng của nền kinh tế xă hội th́ du lịch là một đ̣i hỏi tất yếu của người lao động.
    Thuật ngữ du lịch trở nên rất thông dụng. Nó bắt nguồn từ trong tiếng Pháp. “Tour” nghĩa là đi ṿng quanh, cuộc dạo chơi, c̣n “ Tourist” là người đi dạo chơi. Thuật ngữ du lịch bao hàm nội dung kép. Một mặt, nó mang ư nghĩa thông thường của việc đi lại với mục đích nghỉ ngơi, giải trí Mặt khác, du lịch được nh́n nhận như một hoạt động gắn chặt với những kết quả kinh tế - xă hội do chính nó tạo ra.
    Trong ṿng hơn sáu thập kỷ qua, kể từ khi Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch IOUTO (International of Union Travel Organization) được thành lập năm 1925 tại Hà Lan, khái niệm du lịch luôn được đưa ra để tranh luận. Khái niệm du lịch được xác định như sau:
    “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên và nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao tŕnh độ nhận thức văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá” ( I.I. Pirôgionic, 1985). [3.8]
    Và khi tŕnh độ sản xuất xă hội càng cao, các mối quan hệ xă hội càng hoàn thiện th́ nhu cầu du lịch của con người ngày càng trở nên cần thiết.
    “Du lịch là một hoạt động cốt yếu của con người và của xă hội hiện đại bởi một lẽ du lịch đă trở thành một h́nh thức quan trọng trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của con người, đồng thời là phương tiện giao lưu trong mối quan hệ giữa con người với con người” (Tuyên bố La Hay về du lịch).
    Pháp lệnh du lịch Việt Nam (1999) cũng quy định:
    “Du lịch là hoạt động của con người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của ḿnh nhằm thoả măn nhu cầu thăm quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.[7.20]
    1.2. Tài nguyên du lịch.
    Du lịch là một trong những ngành có sự định hướng tài nguyên rơ rệt. Tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lănh thổ của ngành Du lịch, đến việc h́nh thành, chuyên môn hóa các vùng Du lịch và hiệu quả kinh tế của hoạt động dịch vụ.
    Theo Pháp lệnh Du lịch Việt Nam năm 1999, khái niệm tài nguyên du lịch được hiểu như sau:
    “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công tŕnh lao động sáng tạo của con người có thể sử dụng nhằm thỏa măn nhu cầu du lịch là yếu tố cơ bản để h́nh thành các điểm du lịch, khu du lịch để nhằm tạo ra sự hấp dẫn”. [7.20]
    Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
    * Tài nguyên du lịch tự nhiên
    Tài nguyên du lịch tự nhiên là các đối tượng, hiện tượng trong môi trường tự nhiên như: địa h́nh, khí hậu, nguồn nước và động thực vật có tác động trực tiếp đến người quan sát qua nhiều dạng bên ngoài của bản thân nó. Sự tiếp nhận h́nh dạng bên ngoài của tự nhiên gọi là phong cảnh, trong đó tự nhiên chỉ tham gia với những đặc điểm của ḿnh mà có thể quan sát bằng mắt thường.
    * Tài nguyên du lịch nhân văn
    Tài nguyên du lịch nhân văn là sản phẩm do con người tạo ra, có giá trị nhận thức nhiều hơn giá trị giải trí và ít bị phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên, thường tập trung vào các khu vực quần cư và thu hút du khách có mức thu nhập, có tŕnh độ văn hóa cũng như yêu cầu nhận thức cao. Các loại tài nguyên du lịch nhân văn chính bao gồm: các di tích văn hóa - lịch sử, các lễ hội, các đối tượng gắn với dân tộc học, các đối tượng văn hóa, thể thao và các đối tượng nhận thức khác.
    Tài nguyên du lịch th́ nhiều nhưng không phải tất cả đều có thể khai thác và sử dụng cho mục đích du lịch mà chỉ những tài nguyên độc đáo, có sức hấp dẫn cao mới có khả năng phục vụ cho nhu cầu phát triển du lịch.
    II. Các quan niệm về văn hoá và du lịch văn hoá

    2.1. Văn hoá và các thành tố của văn hoá

    a. Các quan niệm văn hóa
    Từ hàng trăm năm nay trên Thế giới ngư­ời ta đă bàn rất nhiều về văn hoá. Theo tài­ liệu của tác giả Nguyễn Từ Chi viết trong cuốn “Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người” th́ cho đến năm 1952 hai ngư­ời Mỹ là A.L.Krocber và C.L.KlucKhohn đă thống kê đư­ợc trên dư­ới ba trăm định nghĩa về văn hoá của các tác giả ở các nư­ớc khác nhau. Tựu chung trong các định nghĩa trên về văn hoá (culture) là tất cả những ǵ do con ngư­ời sáng tạo ra trong quá tŕnh lao động trí óc và lao động chân tay để thoả măn nhu cầu vật chất và tinh thần của ḿnh.
    Ở Việt Nam theo tác giả Đào Duy Anh th́ “Hai tiếng văn hoá chẳng qua là chỉ chung tất cả các phư­ơng diện sinh hoạt của loài ngư­ời. Cho nên ta có thể nói rằng văn hoá tức là sinh hoạt”. [8.17]
    Theo Aruchunov.S.A (Nga) th́ văn hoá là khái niệm cực kỳ phức tạp và đa dạng. Ông đă dùng định nghĩa của E.S.Markarian (Acmenia) để nói: “Văn hoá là tổng thể các phương thức hoạt động của con ngư­ời”.
    Theo PGS. Từ Chi - một trong những nhà dân tộc học hàng đầu của Việt Nam đă viết rằng “Văn hoá, không tự hạn chế vào một số biểu hiện của cuộc sống tinh thần. Nó là toàn bộ cuộc sống, cả vật chất, xă hội, tinh thần của từng cộng đồng. Toàn bộ cuộc sống, chính v́ thế mà nhiều nhà dân tộc học qua mấy m­ươi năm gần đây, có xu hướng thay thế hai chữ văn hoá bằng nếp sống”. [2.10]
    Trả lời câu hỏi “văn hoá và đặc biệt văn hoá tộc ng­ười là ǵ?” Ông nói Người ta đă đư­a ra cả trăm định nghĩa về văn hoá mà mỗi định nghĩa đều có cái đúng của nó. C̣n theo riêng tôi sau nhiều năm làm dân tộc học, tôi cho rằng văn hoá của từng tộc ngư­ời chủ yếu đư­ợc phản ánh qua nếp sống của họ”. [2.14]
    Khái niệm văn hóa của UNESCO cho rằng: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xă hội hay của một nhóm người trong xă hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng: văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lư. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ư thức được bản thân, tự biết ḿnh là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, t́m ṭi không biết mệt những ư nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công tŕnh vượt trội lên bản thân”.[8.24]
    Như vậy, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa là ch́a khóa của sự phát triển.
    b. Các thành tố văn hoá
    * Văn hoá vật thể
    Văn hoá vật thể Việt Nam thu hút khách bởi nét uyển chuyển, hài hoà của các công tŕnh kiến trúc, các h́nh tượng nghệ thuật độc đáo do bàn tay tài hoa của những người thợ tạo nên. Di tích lich sử văn hoá Việt Nam biểu hiện chất văn hoá của một quốc gia nông nghiệp, có nền “dân gian - huyền thoại” và “tôn giáo - thần bí”.
    Trải qua năm tháng lịch sử, chúng ta may mắn được cha ông để lại cho một số lượng rất lớn các di tích lịch sử. Tiêu biểu là cố đô Huế, phố cổ Hội An, tháp Chàm, chùa Một Cột, tượng phật chùa Tây Phương, đền Hùng . Đây là nguồn tài nguyên chính để khai thác kinh doanh trong du lịch. Đến với các di tích lịch sử của Việt Nam, du khách sẽ được tận hưởng các giá trị văn hoá dân tộc chứa đựng trong đó. Ngoài các công tŕnh kiến trúc lớn nêu trên, ở bất kỳ vùng miền nào chúng ta cũng bắt gặp được các đền, chùa, miếu, phủ mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam và văn hoá vùng.
    * Văn hoá phi vật thể
    Du lịch Việt Nam không chỉ thu hút khách du lịch bởi các giá trị văn hoá vật chất mà c̣n thu hút khách du lịch tới các giá trị văn hoá phi vật thể. Đó là các loai h́nh nghệ thuật truyền thống như: tuồng, chèo, rối nước, hát ru, dân ca quan họ, hát sẩm, ca trù . hết sức độc đáo, là những nét văn hoá đầy tính dân gian và huyền thoại của các lễ hội.
    Trong khoảng chục năm gần đây Du lịch Việt Nam đă biết khai thác các loại h́nh nghệ thuật truyền thống để giới thiệu với khách du lịch bốn phương những nét điển h́nh nhất, những đặc trưng về phong tục tập quán, tâm hồn, cốt cách con người Việt. Thành công nhất phải kể đến nghệ thuật rối nước, quan họ và gần đây là chèo, hát sẩm và ca trù .
    Trong sinh hoạt văn hoá cổ truyền, những hoạt động ca múa nhạc dân tộc có tính đặc trưng của mỗi địa phương, mỗi vùng, mỗi dân tộc đóng vai tṛ hết sức quan trọng. Đến với Lào Cai, du khách không những được thăm cảnh núi rừng, thăm những bản làng dân tộc giàu ḷng mến khách, thưởng thức những đêm “văn hoá dân tộc” theo tục lệ , mang đầy ư nghĩa của cuộc sống dân dă. Cùng với những bài hát, lời ca, điệu múa dân tộc H’Mông, dân tộc Thái, dân tộc Dao ., được mắt thấy tai nghe chiếc khèn phát ra hoà nhịp với những điệu múa của các chàng trai dân tộc Hmông . Hầu hết những nhạc cụ độc đáo đều gây những bất ngờ thú vị cho khách du lịch.
    Hệ thống các giá trị văn hoá phi vật thể của Việt Nam hết sức phong phú và đa dạng. Văn hóa mỗi miền Bắc - Trung - Nam đều mang một nét đặc thù riêng, trong mỗi miền lại chia thành các vùng bản sắc của ḿnh. V́ vậy, có thể nói các giá trị văn hoá phi vật thể của Việt Nam là vô cùng phong phú, khó có thể liệt kê hết.
    2.2. Du lịch văn hoá

    Du lịch văn hóa chính là hoạt động du lịch chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, và cả những phong tục tín ngưỡng . để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và du khách khắp nơi trên Thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, th́ du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa măn nhu cầu của họ.
    Phần lớn hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với các địa phương, nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa đặc trưng của vùng miền. Ngày nay, khách du lịch thường lựa chọn loại h́nh du lịch văn hóa lễ hội của các nước để tổ chức những chuyến du lịch nước ngoài. Ở Việt Nam, có rất nhiều lễ hội văn hóa được tổ chức như: Festival Huế, lễ hội Đất Phương Nam, Di sản miền Trung, Tuần văn hóa Sa Pa . thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Bởi vậy, thu hút khách du lịch tham gia du lịch văn hóa tức là tạo ra ḍng chảy mới cho sự phát triển du lịch bền vững và hoàn thiện.
    2.3. Thực trạng khai thác các giá trị văn hoá trong du lịch
    Cùng với sự phát triển của du lịch Việt Nam trong những năm qua, các giá trị văn hoá không ngừng được khai thác để phát triển du lịch. Nhiều di tích được sửa chữa, nhiều tuyến điểm du lịch được xây dựng. Đặc biệt từ năm 1992 đến nay, cùng với sự nhạy bén của cơ chế thị trường, các di tích lịch sử, các loại h́nh nghệ thuật truyền thống được phát huy triệt để vào kinh doanh du lịch ở nước ta. Hầu như, mỗi vùng, mỗi tỉnh thành phố đều có các di tích được bảo vệ, bán vé cho khách tham quan. Đi kèm theo đó là biểu diễn nghệ thuật, ca múa nhạc dân tộc để thu hút khách.
    Sự đầu tư, sửa chữa các di tích, các công tŕnh kiến trúc góp phần giúp cho du lịch phát triển qua các sản phẩm văn hoá du lịch hấp dẫn hơn. Mỗi di tích góp phần rất lớn trong việc đáp ứng yêu cầu t́m hiểu văn hoá, nâng cao hiểu biết của người nước ngoài đối với Việt Nam, đồng thời đóng góp một phần ngân sách, tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước. Chính nguồn thu nhập hàng năm mà khách tham quan các di tích mang lại cho ngành du lịch nói riêng cho đất nước nói chung đă khẳng định tiềm năng to lớn của nó.
    Tuy ngành du lịch Việt Nam c̣n non trẻ, khối lượng các tour chưa nhiều, các dịch vụ c̣n ít nhưng đến với một đất nước tươi đẹp, thanh b́nh, thái độ phục vụ của nhân viên du lịch lại rất tốt nên đă tạo được ấn tượng sâu sắc cho khách du lịch quốc tế. Phần lớn khách du lịch đến với Việt Nam đều đánh giá cao về ḷng mến mộ, sự phục vụ tận t́nh, chu đáo của người Việt. Đây là dấu hiệu tốt về sự phát triển du lịch trong tương lai.
    Với không khí khẩn trương, nghiêm túc trong một thời gian ngắn việc thiết lập kỉ cương các hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá đă đem lại cho lễ hội bầu không khí nghiêm trang vốn có, đem lại cho các dịch vụ kinh doanh trong lĩnh vực văn hoá một sự quy củ, trật tự. Người ta không c̣n thấy đâu cảnh chen lấn, xô đẩy, chèo kéo khách thay và đó là một đội ngũ bảo vệ, phục vụ có tổ chức, có thái độ đúng mực.
    Tuy nhiên du lịch Việt Nam cũng có rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Đó là việc tổ chức một số tuyến diểm du lịch đă bị thương mại hoá, làm méo mó nó, lai tạp vẻ đẹp truyền thống vốn có. Biết rằng đă là dịch vụ th́ cần khai thác tối đa, nhưng nếu dùng các nhạc cụ độc đáo biểu diễn đôi ba bài cho qua chuyện, cốt chỉ kích thích tính hiếu ḱ, ṭ ṃ rồi bán những nhạc cụ đó cho khách và coi đó là mục tiêu chính th́ quả là một điều tệ hại.
    Đi mỗi nơi du khách đều t́m những cảm giác mới lạ, thú vị bất ngờ không chỉ ở những địa danh, những di tích thuần tuư. Chính những nét văn hoá đặc trưng kia ghi dấu ấn quan trọng trong cả cuộc hành tŕnh. Nhưng lựa chọn loại h́nh nào để phù hợp với nhu cầu, sở thích của khách, giữ ǵn được giá trị nghệ thuật là việc cần được cân nhắc. Giữa núi rừng bạt ngàn hay không gian tĩnh lặng, thanh b́nh của một miền quê, chắc chắn quư khách sẽ không hứng thú ǵ khi nghe những bản nhạc quốc tế ồn ào mà không phải là những giai điệu thanh trầm của cây đàn bầu hay tiếng sáo trúc vút lên thánh thót. Từ đó, h́nh ảnh đất nước, con người Việt Nam tươi đẹp mới thấm đậm và được lưu giữ măi trong ḷng du khách với sự kính trọng và ngưỡng mộ.
    Việt Nam có 54 dân tộc với 54 sắc thái văn hoá khác nhau nhưng chỉ mới có văn hoá người Kinh là khai thác phổ biến trong du lịch, c̣n các dân tộc khác đă khai thác nhưng c̣n ít. Văn hoá dân tộc thiểu số phía Bắc có văn hoá H’Mông, Mường, Dao, Thái . dọc Trường Sơn, Tây Nguyên có văn hoá Khơ me. Tiềm năng văn hoá dân tộc thiểu là rất lớn nhưng việc khai thác nó là rất khó khăn. Do các dân tộc này nằm ở vùng sâu vùng xa, giao thông đi lại khó khăn. Trong tương lai khi mạng lưới giao thông phát triển đến từng thôn xóm, bản làng th́ đây sẽ là nguồn tiềm năng phong phú của du lịch nước ta.
    Như vậy, toàn bộ chương 1 đă cung cấp cho chúng ta một số khái niệm và nội dung có liên quan trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu của khoá luận. Thông qua nội dung chương 1 chúng ta có thể nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động phát triển loại h́nh du lịch văn hoá qua việc khai thác các yếu tố đặc sắc mang tính dân tộc của mỗi tộc người. Việc khai thác những nét văn hoá độc đáo của người H’Mông - một dân tộc có vị trí khá quan trọng trong 54 dân tộc Việt Nam hiện được tiến hành như thế nào? Nội dung chương 2 sẽ trả lời câu hỏi này.
    CHƯƠNG II
    NGƯỜI H’MÔNG VÀ NHỮNG NÉT VĂN HÓA
    ĐỘC ĐÁO CỦA HỌ


    I. Nguồn gốc, lịch sử và sự phân bố dân cư

    1.1. Nguồn gốc, lịch sử và quá tŕnh di chuyển của người H’Mông vào Việt Nam

    a . Nguồn gốc lịch sử
    Người H’Mông ở Việt Nam nói chung hiện nay đều có nguồn gốc từ phương Bắc. Theo các truyền thuyết của Trung Quốc th́ người H’Mông xuất hiện sớm nhất ở khu vực trung và hạ lưu sông Trường Giang. Cách đây 5.000 năm đă có liên minh bộ lạc do tù trưởng Suy Vưu làm thủ lĩnh. Trong thời ḱ này cũng có 1 liên minh bộ lạc khác do Hiên Viên đứng đầu, nổi lên ở thượng nguồn sông Hoàng Hà. Vào khoảng 2.700 năm TCN, hai liên minh bộ lạc này luôn xung đột với nhau, Cửu Lê bại trận, Hiên Viên xưng Hoàng đế.
    Vào thời ḱ Vua Nghiêu, Thuấn, Vũ xuất hiện liên minh mới là “Tam Miêu”, “Hữu Miêu” hoặc “Miêu Dân” khá hùng mạnh. Họ chiến đấu kiên cường chống lại các thế lực do các Vua đứng đầu.
    Từ thế kỉ 16 đến 11 TCN, người dân Tam Miêu cùng nhiều tộc người khác ở trung lưu sông Trường Giang được gọi là Kinh Sở, c̣n gọi là Nam Man đời sống kinh tế phát đạt, cường thịnh.
    Đến triều Ân, Chu, nhà nước Trung Quốc vẫn coi Nam Man là thù địch. Từ đó trở đi Nam Man và Bắc Địch đối địch , t́nh h́nh Trung Quốc rối loạn.
    Như vậy từ Cửu Lê đến Tam Miêu, Nam Man, Kinh Sở đều có mối liên hệ nguồn gốc với nhau. Có thể coi đó là tổ tiên của người H’Mông hiện nay. Lúc đầu người H’Mông cư trú ở khu vực phía Bắc sông Hoàng Hà, sau do sự phát triển và mở rộng lănh thổ của người Hán, người H’Mông di cư dần xuống phía Nam.
    b . Quá tŕnh di chuyển
    Theo các nhà dân tộc học th́ phần lớn những người H’Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam đều di cư trực tiếp từ Quư Châu, Quảng Tây, Vân Nam (Trung Quốc) sang. Riêng một số nhóm ở Thanh Hoá, Nghệ An di cư đến Việt Nam qua Lào.
    Người H’Mông đến Việt Nam bằng các con đường khác nhau và chia làm nhiều đợt, trong đó có 3 đợt chính:
    · Đợt thứ nhất: Cách đây khoảng 300 năm, có khoảng 100 hộ thuộc các họ Lù, Giàng từ Quư Châu đến khu vực các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang, thời gian vào quăng cuối đời Minh, đầu đời Thanh của lịch sử Trung Quốc.
    · Đợt thứ hai: Cách đây trên 200 năm, có khoảng trên 100 hộ thuộc các họ Vàng, Lù, Chấu, Sùng, Hoàng, Vừ vào khu vực Si Ma Cai, Bắc Hà của tỉnh Lào Cai.
    · Đợt thứ ba: Số người H’Mông di cư vào Việt Nam đông nhất, gồm khoảng trên 10 ngàn người. Phần lớn họ từ Quư Châu, có một số từ Quảng Tây, Vân Nam sang, chủ yếu vào các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang
    Về sau hàng năm vẫn có người H’Mông di cư lẻ tẻ sang Việt Nam và từ sau ngày đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới (1986), t́nh h́nh di chuyển của người H’Mông luôn gia tăng, theo 2 hướng Bắc - Nam, Đông - Tây. V́ vậy, số địa phương có người H’Mông sinh sống tăng lên đáng kể.
    1.2. Dân cư và sự phân bố dân cư

    Từ trước năm 1960, trên lănh thổ Việt Nam, dân số H’Mông chưa được xác định chính xác. Chỉ đến 1-3-1960, với cuộc tổng điều tra dân số toàn miền Bắc, người H’Mông ở Việt Nam có khoảng 105.521 người. Với cuộc tổng điều tra lần thứ 2 ngày 1-4-1974, người H’Mông có 348.722 người. Như vậy sau 14 năm dân số H’Mông tăng thêm 243.201 người. Tại cuộc tổng điều tra dân số toàn miền Bắc lần thứ nhất (1-10-1979), dân số H’Mông là 411.074 người. Ở cuộc điều tra dân số toàn quốc lần thứ 2 (1-4-1989), dân số H’Mông là 558.053 người, vậy là sau khoảng 10 năm, dân số H’Mông tăng thêm 146.979 người (b́nh quân tăng 3,2%). Đến cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam (1-4-1999), dân số H’Mông là 787.604 người, sau 10 năm tăng thêm 229.551 người (b́nh quân 3,4%). So với các dân tộc ở Việt Nam, tốc độ tăng dân số b́nh quân của người H’Mông thuộc loại cao.
    Người H’Mông không những có tỉ lệ phát triển dân số cao mà tốc độ di chuyển dân cư cũng khá lớn. Năm 1960 họ có mặt ở 398 xă, năm 1979 có mặt ở 677 xă th́ năm 1989 họ đă có mặt ở 802 xă và năm 1999 có mặt trên 1000 xă. Chỉ tính ở cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999, họ đă có mặt ở tất cả các vùng trong cả nước, đông nhất là khu vực Đông Bắc 445.782 người (56,60%), tiếp đến là Tây Bắc 289.000 người(36,69%), Bắc Trung Bộ 39.373 người (4,99%), Tây Nguyên 12.392 người (1,57%), đồng bằng sông Hồng 533 người, Đông Nam Bộ 431 người và đồng bằng sông Cửu Long 53 người.
    Nếu tính theo tỉnh th́ hiện nay có 20 tỉnh có dân số H’Mông từ 100 người trở lên, và 10 tỉnh có dân số H’Mông từ 10 ngàn người trở lên.
    [TABLE=align: center]
    [TR]
    [TD] STT[/TD]
    [TD]Tên tỉnh[/TD]
    [TD]Tổng số dân H’mông[/TD]
    [TD]Nam[/TD]
    [TD]Nữ[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]1[/TD]
    [TD]Hà Giang[/TD]
    [TD]183.994[/TD]
    [TD]90.686[/TD]
    [TD]93.308[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]2[/TD]
    [TD]Lay Châu[/TD]
    [TD]170.460[/TD]
    [TD]85.791[/TD]
    [TD]84.669[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]3[/TD]
    [TD]Lào Cai[/TD]
    [TD]123.778[/TD]
    [TD]61.558[/TD]
    [TD]62.220[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]4[/TD]
    [TD]Sơn La[/TD]
    [TD]114.578[/TD]
    [TD]57.796[/TD]
    [TD]56.782[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]5[/TD]
    [TD]Yên Bái[/TD]
    [TD]60.726[/TD]
    [TD]30.503[/TD]
    [TD]30.223[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]6[/TD]
    [TD]Cao Bằng[/TD]
    [TD]41.437[/TD]
    [TD]20.469[/TD]
    [TD]20.941[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]7[/TD]
    [TD]Nghệ An[/TD]
    [TD]26.045[/TD]
    [TD]13.211[/TD]
    [TD]12.834[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]8[/TD]
    [TD]Bắc Cạn[/TD]
    [TD]14.770[/TD]
    [TD]7.413[/TD]
    [TD]7.357[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]9[/TD]
    [TD]Thanh Hóa[/TD]
    [TD]13.325[/TD]
    [TD]6.750[/TD]
    [TD]6.575[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]10[/TD]
    [TD]Đắc Lắk[/TD]
    [TD]10.891[/TD]
    [TD]5.463[/TD]
    [TD]5.428[/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]


    Bảng 1: Những tỉnh có dân số H’mông từ 10 ngàn người trở lên (1999)
    1.3. Sự phân bố dân cư H’Mông ở Lào Cai

    Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới có diện tích tự nhiên là 8.049,54 km[SUP]2[/SUP], có 302 km đường biên giới giáp Trung Quốc. Toàn tỉnh có 180 xă, phường, thị trấn, trong đó có 152 xă vùng cao, 27 xă phường giáp biên giới Việt - Trung. Lào Cai có 55 vạn dân gồm 16 dân tộc như Việt (Kinh), Mường, Tày, Thái, Nùng, Giáy, Bố Y, Lự, H’Mông, Dao, Hà Nh́, Phù Lá, La Ha, Kháng, La Chí, Hoa. Trong đó người H’Mông có 110.000 người. Lào Cai là một tỉnh biên giới, cư dân từ các nơi hội tụ về đây. Có dân tộc sinh sống đă lâu đời, có dân tộc mới đến cư trú, nhưng các dân tộc đều coi Lào Cai là quê hương.
    Người H’Mông ở Lào Cai có 4 ngành chính, phân bố ở các địa bàn cụ thể:
    · H’Mông hoa (H’Mông Lềnh) là ngành có số dân đông nhất, chiếm tới 70% số người H’Mông ở Lào Cai, họ cư trú ở 8 huyện nhưng tập trung ở Bắc Hà, Mường Khương, Sa Pa, Bảo Thắng, Bảo Yên.
    · H’Mông đen (H’Mông Đu) cư trú rải rác tại Bát Xát, Sa Pa.
    · H’Mông xanh (H’Mông Dua) cư trú tập trung ở xă Nậm Xé huyện Văn Bàn.
    · H’Mông trắng (H’Mông Đơ) ở Bắc Hà, Bát Xát, Văn Bàn, Sa Pa.
    Tuy phân biệt thành 4 ngành H’Mông khác nhau nhưng trừ ngành H’Mông xanh (H’Mông dua) ở Văn Bàn, c̣n ba ngành H’Mông hoa, H’Mông trắng, H’Mông đen về ngôn ngữ văn hoá cơ bản giống nhau, sự khác biệt giữa các nhóm chủ yếu là dựa trên trang phục phụ nữ. Trong ngôn ngữ, hơn 93% từ vị cách phát âm của các nhóm H’Mông giống nhau.
    Người H’Mông di cư đến Lào Cai cách ngày nay hơn hai trăm năm. Người H’Mông từ Quư Châu di cư xuống Vân Nam và từ Vân Nam vào Lào Cai làm nhiều đợt. Đợt di cư đầu tiên vào Lào Cai gồm 80 gia đ́nh (họ Vàng, Lù, Chấn, Sùng, Hoàng, Vũ ). Các ḍng họ này di cư đến San Khô, nay là vùng Si Ma Cai (Bắc Hà). Thủ lĩnh dẫn đầu đoàn di cư đến Lào Cai là ông Hoàng Sín Dần, một tộc trưởng có uy tín, giỏi vơ nghệ. Họ sinh sống ở Bắc Hà được ba đời th́ có 30 gia đ́nh lại tiếp tục di cư sang Sa Pa, đoàn di cư do ông Lư Thàng Pua dẫn đầu.
    Từ năm 1840 đến 1869, người H’Mông ở Quư Châu, Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc) lại kiên cường nổi dậy chống nhà Măn Thanh. Cuộc khởi nghĩa thất bại, phong kiến nhà Măn Thanh đàn áp dă man, hơn 1 vạn người H’Mông ồ ạt di cư sang Việt Nam. Người H’Mông di cư đến Lào Cai chia làm 3 đoàn: một đoàn do ông Sèo Cô Ph́n dẫn đầu đến Pha Long Mường Khương, một đoàn do ông Lùng Chung chỉ huy di cư sang Bản Lầu, một đoàn do một thủ lĩnh họ Hoàng dẫn đầu tiếp tục đến Si Ma Cai. Sau khi định cư một thời gian, người H’Mông từ Mù Vẳn (Bắc Hà) lại di cư sang miền Tây. Một đoàn di cư khác do ḍng họ Mă, họ Vàng dẫn đầu đi từ Pha Long xuống Cốc Lếu, Lào Cai lên Trung Chải, San Sả Hồ (Sa Pa). Một đoàn khác từ Bắc Hà xuống Phố Lu lên Sa Pa rồi vào Văn Bàn. Trong đoàn đi lần này có một nhóm H’Mông xanh sau định cư tại xă Nậm Xé (Văn Bàn). Đợt thiên di lần thứ ba vào cuối thế kỉ 19 và rải rác đến những năm đầu thế kỉ 20, địa bàn tập trung chủ yếu ở các huyện Bát Xát, Bảo Thắng, Bảo Yên, Than Uyên.
     
Đang tải...